Căn cứ khoản 1 Điều 5 Thông tư 119/2014/TT-BTC có quy định:
Hóa đơn giá trị gia tăng:là loại hóa đơn dành cho các tổ chức khai, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ trong các hoạt động sau:
- Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong nội địa;
- Hoạt động vận tải quốc tế;
- Xuất vào khu phi thuế quan và các trường hợp được coi như xuất khẩu
Hóa đơn bán hàng dùng cho các đối tượng sau đây:
- Tổ chức, cá nhân khai, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp khi bán hàng hóa, dịch vụ trong nội địa, xuất vào khu phi thuế quan và các trường hợp được coi như xuất khẩu.
- Tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vào nội địa và khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan với nhau, trên hóa đơn ghi rõ “Dành cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan”
Căn cứ Công văn 11561/CT-TTHT/2014 có quy định:
“Từ ngày 01/09/2014 khi xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài Công ty sử dụng hóa đơn thương mại không sử dụng hóa đơn xuất khẩu. Trường hợp Công ty còn tồn hóa đơn xuất khẩu nếu không có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì Công ty thực hiện thủ tục hủy theo quy định tại Điều 29 Thông tư 39/2014/TT-BTC. Hóa đơn thương mại do Công ty tự thiết kế theo thông lệ quốc tế nên Công ty không phải làm thủ tục thông báo phát hành hóa đơn và không phải báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Khi kê khai thuế GTGT hàng tháng hoặc quý Công ty vẫn phải kê khai hóa đơn thương mại trên bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ bán ra theo mẫu số 01-1/GTGT”
Theo đó khi doanh nghiệp Việt Nam cung cấp hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp ra nước ngoài sẽ phải sử dụng hóa đơn thương mại thay cho hóa đơn xuất khẩu.
Cho mình hỏi là hóa đơn thương mại ở đây là loại hóa đơn nào? Được quy định tại văn bản pháp luật nào? Phương thức sử dụng loại hóa đơn này? Và loại hóa đơn này về bản chất có phải là hóa đơn giá trị gia tăng hay hóa đơn bán hàng hay không?
Mình xin cảm ơn rất nhiều!