Chủ nhiệm UB Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển cho hay, việc sửa đổi, bổ sung luật cần quán triệt nguyên tắc, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN, mặt khác, phải bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giữ nghiêm kỷ luật tài chính, ngăn chặn các hành vi chây ỳ, trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xin tiếp thu theo hướng giữ quy định hiện hành về ân hạn đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng có phân loại DN để áp dụng ân hạn.
Cụ thể, với các DN nhập khẩu hàng hóa là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, thời hạn nộp thuế tối đa là 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nếu đáp ứng đủ các điều kiện như: Có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam; Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất hai năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế; nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt.
Luật cũng quy định các trường hợp khác phải nộp thuế trước khi thông quan, giải phóng hàng hóa hoặc phải được tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Về ý kiến cho rằng, việc DN nợ thuế giá trị gia tăng không thể coi là hành vi chậm nộp tiền thuế mà nên đưa vào hành vi chiếm dụng tiền thuế để xử lý, UBTVQH giải thích, việc chậm nộp dẫn đến nợ thuế giá trị gia tăng của các DN xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan.
Vì vậy, sẽ không thật hợp lý nếu coi mọi trường hợp nợ thuế là chiếm dụng tiền thuế. Đồng thời, theo quy định tại điều 92 của luật Quản lý thuế hiện hành và điều 106 dự thảo luật sửa đổi thì trường hợp người nộp thuế chậm nộp tiền thuế sau 90 ngày sẽ phải nộp tiền chậm nộp theo mức 0,07%/ngày và bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Vì vậy, UBTVQH xin cho giữ như quy định của dự thảo luật.
Dự án luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2013.