Mới đây, trên Facebook hàng loạt nổ ra các thông tin ngoại tình của các gia đình làm dậy sóng cộng đồng mạng một phen. Việc ngoại tình không hẳn là mới tuy nhiên mỗi lần xuất hiện trên các trang thông tin nó lại trở thành chủ đề chiếm sự quan tâm nhiều nhất. Việc người vợ tung bằng chứng ngoại tình của chồng và cô tình nhân lên Facebook liệu có hợp pháp hay không và nếu không thì mức phạt ra sao?
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan đều quy định vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: "Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ" là một trong những hành vi bị cấm.
Như vậy, hành vi ngoại tình của người trong cuộc là trái với quy định của pháp luật và vi phạm vào nghĩa vụ của vợ và chồng. Hành vi này không chỉ bị coi là vi phạm pháp luật mà còn trái với đạo đức xã hội, ngược lại với thuần phòng, mỹ tục Việt Nam.
Tuy nhiên việc người vợ tung những hình ảnh của cô tình nhân hoặc tin nhắn lén lút qua lại giữa chồng và cô tình nhân lên mạng xã hội như thế có đúng với quy định pháp luật hay không?
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 32 Bộ Luật Dân sự 2015 về quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Theo đó, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Chính vì vậy, việc tùy tiện đăng ảnh người khác không xin phé, trong trường hợp này là người vợ đăng ảnh cô nhân tình, là đã vi phạm pháp luật.
Thứ hai, căn cứ Điều 34 BLDS 2015 Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
Theo đó, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Vậy nên trong trường hợp người tung ảnh của cô tình nhân và những đoạn tin nhắn liên quan lên mạng xã hội kèm theo những lời lẽ làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cô tình nhân đó thì vi phạm vào Điều 34 Luật này.
Theo đó, cô tình nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Ngoài ra, pháp luật quy định rằng những thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.
Như vậy, không chỉ phải công khai xin lỗi, cải chính mà trong trường hợp này người vợ còn có thể phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người chồng và cô tình nhân.
Thứ ba, đồng thời cũng vi phạm Điều 38 BLDS 2015 quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình: Luật quy định rằng, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, đời sống tình cảm cá nhân riêng tư là những vấn đề nhạy cảm và cần được “bí mật” và không được phép công khai nếu cá nhân người có bí mật, đời sống riêng tư không cho phép tiết lộ.
Vậy nên, trong trường hợp này người chồng và cô tình nhân cũng có thể yêu cầu người vợ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho, theo đó, mức yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần bao gồm các chi phí để khắc phục, thu hồi các hình ảnh, đoạn tin nhắn xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân.
Thứ tư, theo khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP về hành chính:
+ Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan , tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
+ Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin bí mật đời tư cá nhân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật.
- Theo điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, căn cứ Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 có thể chịu trách nhiệm hình sự.
Bởi lẽ một người chỉ được coi là có tội khi có bản án của tòa án tuyên là có tội.
Vậy nên, nếu người vợ có hành vi phát tán hình ảnh cá nhân hay đoạn tin nhắn qua lại lén lút của người chồng và cô tình nhân lên mạng xã hội làm lan truyền rộng rãi tới dư luận thì người vợ có thể bị coi là đã xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Theo đó, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người vợ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sau:
Tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 được sử đổi bổ sung bởi điểm e Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, cụ thể:
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Mức phạt cao nhất của hành vi này trong một số trường hợp có thể lên tới 05 năm tù. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ sáu, bên cạnh các chi phí đó, người bị hại có quyền yêu cầu bù đắp tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, mức yêu cầu này được quy định theo Điều 592 BLDS 2015:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Vậy người vợ phải làm gì khi phát hiện người chồng ngoại cho đúng luật?
Đầu tiên, cần báo cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý hành chính theo quy định tại Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thẩm quyền lập biên bản xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi này thuộc về công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, công chức Phòng Tư pháp cấp huyện.
Nếu trường hợp, hành vi vi phạm quy định về chế độ một vợ, một chồng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ hôn nhân hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 182 BLHS 2015.
Như vậy, dựa vào thẩm quyền nêu trên, bạn có thể gửi đơn tố cáo chồng ngoại tình đến UBND cấp xã, Phòng tư pháp cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp huyện, Cơ quan cảnh sát điều tra cấp có thẩm quyền,…