Ngày 09/9/2024, VKSND Tối cao đã có Công văn 3854/VKSTC-V9 Giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình.
https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/14/cong-van-3854.pdf Công văn 3854/VKSTC-V9
(1) VKSND Tối cao giải đáp vướng mắc về hòa giải tranh chấp đất đai
Cụ thể, tại VKSND tỉnh Lâm Đồng có đặt câu hỏi về việc thực hiện Luật Đất đai như sau:
Đối với tranh chấp quyền sử dụng đất thì phải đáp ứng điều kiện khởi kiện đã qua hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo Điều 202 Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp hòa giải không có đủ thành phần theo quy định. Theo đó, hiện có 02 quan điểm về vấn đề này như sau:
- Việc hòa giải thiếu thành phần hòa giải là không đủ điều kiện khởi kiện nên trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
- Điều 202 Luật Đất đai 2013 và Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP chỉ quy định điều kiện khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất là đã được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp, việc trả lại đơn khởi kiện với lý do việc hòa giải thiếu thành phần là không đúng.
Giải đáp về vướng mắc nêu trên, VKSND Tối cao trích dẫn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP như sau:
“2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 01/2017/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi các khoản 27, 28 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP thì khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, UBND cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc bao gồm:
- Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất.
- Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng bao gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tô trưởng tô dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn.
Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ 02 thì được coi là việc hòa giải không thành.
Theo đó, có thể thấy, hiện nay, pháp luật không quy định nếu Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đủ thành phần thì cuộc họp hòa giải không được tiến hành hay việc hòa giải không có hiệu lực. Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đưa ra quyết định, không biểu quyết theo đa số.
Hơn nữa, theo quy định nêu trên thì Hội đồng có thành phần rất linh hoạt như “đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất; tùy từng trường hợp cụ thế, có thế mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”. Do đó, có một số thành phần Hội đồng không mang tính bắt buộc.
Còn đối với tranh chấp đất đai cần qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp bởi vì đây thuộc loại tranh chấp về quyền sở hữu (quyền sử dụng đất thuộc về ai) nên vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai tại nơi có đất là rất quan trọng (là nơi quản lý hồ sơ, tài liệu về nguồn gốc đất, nắm được quá trình sử dụng đất, những người sử dụng đất, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất, thời điểm phát sinh tranh chấp...). Đây là cơ sở để Toà án có được thông tin để giải quyết đúng đắn vụ án.
Hơn nữa, việc hòa giải nhằm đến làm rõ quan điểm, ý chí, nguyện vọng của các bên, giúp các bên thỏa thuận, thống nhất được với nhau để chấm dứt tranh chấp.
Thế nên, trường hợp các bên đã hoà giải không thành và khởi kiện thì không nên đặt nặng nhũng vấn đề mang tính hình thức của việc hoà giải mà làm chậm trễ việc giải quyết tranh chấp của các bên. Vì vậy, quan điểm thứ 02 mà VKSND tỉnh Lâm Đồng nêu là hợp lý.
(2) VKSND Tối cao giải đáp thắc mắc về Hợp đồng ủy quyền
Cụ thể, VKSND tỉnh Lâm Đồng có nêu vướng mắc đối với Hợp đồng ủy quyền như sau:
Tại Điều 569 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định trường hợp uỷ quyền không có thù lao thì bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên kia biết một thời gian hợp lý.
Tuy nhiên, việc xác định một bên đã hoàn thành nghĩa vụ báo trước là khó, dẫn đến không đủ cơ sở xác định hợp đồng ủy quyền đã chấm dứt hay chưa.
Theo đó, VKSND Tối cao giải đáp về vướng mắc nêu trên như sau:
- Đối với hợp đồng uỷ quyền không có thù lao, tại Điều 569 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền được đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên kia biết một thời gian hợp lý.
Mà theo Điều 428 Bộ Luật Dân sự 2015 thì “Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt”.
Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng là các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp; bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện; bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.
Theo đó, đương sự cho rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ báo trước và hợp đồng đã chấm dứt có trách nhiệm chứng minh việc đã báo trước và việc bên kia đã nhận được thông báo chấm dứt.
Để xác định việc báo trước có bảo đảm “thời gian hợp lý” hay không thì còn phải xem xét đối với từng công việc uỷ quyền cụ thể, thỏa thuận về trách nhiệm báo trước của các bên và thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên trong cả quá trình thực hiện hợp đồng (thói quen, tập quán hành xử giữa các bên).
Xem chi tiết tại Công văn 3854/VKSTC-V9 ngày 09/9/2024.