Sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Vậy hành vi này bị xử lý như thế nào?
1. Tác phẩm là gì?
Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào (Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005). Người sáng tác ra tác phẩm hoặc chủ sở hữu sản phẩm sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm đó. Nếu tự ý sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp không xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 25, 25a, 26 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022.
2. Hành vi sao chép tác phẩm bị xử lý như thế nào?
Về xử phạt hành chính đối với hành vi tự ý sao chép tác phẩm. Theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP, người thực hiện hành vi sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, người vi phạm còn bị buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Một điều lưu ý là mức tiền phạt này áp dụng đối với cá nhân, mức tiền phạt đối với tổ chức cho hành vi này sẽ gấp 02 lần khung phạt tiền cho cá nhân.
Hơn nữa, người thực hiện hành vi sao chép tác phẩm còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2017), cụ thể:
- Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện hành vi sao chép tác phẩm, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
• Có tổ chức;
• Phạm tội 02 lần trở lên;
• Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
• Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
• Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
- Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với pháp nhân thương mại phạm tội về hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu thì bị phạt như sau:
- Thực hiện hành vi với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng.
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
- Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Như vậy, tự ý sao chép tác phẩm sẽ bị xử phạt hành chính theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP và truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015, trừ các trường hợp sao chép tác phẩm theo Điều 25, 25a, 26 Luật Sở hữu trí tuệ.