Hình phạt là biện pháp cưỡng chế cao nhất trong hệ thống xử lý hình sự đối với một cá nhân hay pháp nhân thương mại. Một khi Tòa án ra quyết định hay bản án có hiệu lực thì người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp được quy định cụ thể thì người đang chấp hành hình phạt tù vẫn có thể giảm mức hình phạt đã tuyên. Vậy đó là những trường hợp nào?
Giảm mức hình phạt đã tuyên là gì?
Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc Tòa án căn cứ vào lời đề nghị của các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát và giáo dục người phạm tội, để ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt.
Một người sẽ được Tòa án ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt khi trong thời gian chấp hành hình phạt đó người phạm tội có nhiều điểm tiến bộ; tích cực chấp hành các quy định.
Khi nào được giảm mức hình phạt đã tuyên?
Giảm mức hình phạt tù là một trong những chính sách nhân đạo của pháp luật Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước đối với phạm nhân, căn cứ Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 quy định giảm mức hình phạt đã tuyên như sau:
(1) Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân đáp ứng được các điều kiện sau đây:
- Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định.
- Có nhiều tiến bộ trong cải tạo.
- Đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự.
Thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
(2) Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
(3) Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm khi đã chấp hành được 15 năm tù nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
(4) Người đã được giảm một phần hình phạt mà thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung.
(5) Người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo mục (3).
(6) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt Tòa án sẽ xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt sớm hơn hoặc cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm:
- Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công.
- Người đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
Như vậy, người phạm tội đang chấp hành hình phạt tù có thể được giảm mức án đã tuyên khi đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Các quy định về hình phạt không những vì mục đích trừng phạt các hành vi xâm phạm đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp luật.
Bên cạnh đó, khi một hình phạt áp dụng cho một hoặc một số hành vi phạm tội thì vấn đề này không đồng nghĩa với việc hình phạt phải được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ trên thực tế mà dựa trên ý thức và mức độ của người phạm tội.
Qua đó, giúp người phạm tội ăn năn, hối cải, nhận thức được sai lầm của mình mà còn tạo động lực cho họ trong việc phấn đấu cải tạo tốt nhằm hưởng các chính sách khoan hồng của Nhà nước.