Vì việc tặng cho tại thời điểm trước đây đã lâu nhưng vẫn được áp dụng quy định Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.
Chính vì vậy, việc tặng cho đất của ông bạn phải được lập thành văn bản có chứng thực hoặc công chứng đúng theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực, nên văn bản tặng cho của ông bạn sẽ vô hiệu ngay từ đầu và đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của ông bạn.
Do vậy mảnh đất mà ông bà đang sống hiện tại sau khi chia thuộc quyền sở hữu riêng của ông và ông bạn mất không để lại di chúc nên phần di sản thừa kế của ông bạn sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định Những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây
a)Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; ….”
Việc thừa kế theo pháp luật sẽ đặt ra trường hợp thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế theo pháp luật quy định.
Theo thông tin bạn cung cấp bên trên, ông nội bạn có bác và bố bạn vaf những người con khác nên theo quy định trên, cả bác và bố bạn đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Do không có di chúc để lại nên di sản của ông bạn sẽ được chia theo pháp luật và chia đều cho cả anh chị em của bố bạn.
Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau: “1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”
Như vậy, căn cứ theo quy định đã nêu trên thì thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do bố bạn và bác bạn đang có tranh chấp với phần di sản thừa kế để lại do đó nếu hai bên không thể tự thỏa thuận được về vấn đề chia tài sản thì bạn có thể làm đơn gửi đến Tòa án nhân dân cấp huyện yêu cầu xem xét phân chia di sản thừa kế. Nếu còn thắc mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, các bạn hãy gọi 1900 6280 liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.
Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377
Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.