Đặt tên là một trong những quyền tự do thành lập và tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Luật doanh nghiệp năm 2005 thì "tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được". Tuy nhiên đến khi Luật doanh nghiệp 2014 được ban hành và có hiệu lực thì quy định về đặt tên bằng tiếng Việt đã được quy định "thoáng" hơn. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì tên tiếng Việt của doanh nghiệp bao gồm 2 thành tố là loại hình doanh nghiệp (tên chung) và tên riêng; trong đó "tên riêng được viết bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu" theo khoản 1 Điều 38 Luật doanh nghiệp 2014 vê "tên doanh nghiệp". Như vậy, có thể hướng mở rất thông thoáng, từ chỗ phải viết hoàn toàn bằng tiếng Việt, thì Luật doanh nghiệp 2014 trở đi, có thể viết bằng tiếng Anh hoặc tương tự, chứ không nhất thiết phải viết và đọc bằng tiếng Việt.
Cũng giống như tên của mỗi con người, tên doanh nghiệp có khả năng rơi vào một trong 3 trạng thái: không tốt cũng chẳng xấu,tốt và xấu. Nếu tên của doanh nghiệp không tốt cũng chẳng xấu thì vô thưởng vô phạt chả có gì phải bàn. Nếu tốt thì pháp luật chả có lý do gì phải cấm thậm chí còn khuyến khích doanh nghiệp khác tham khảo thực hiện. Còn nếu xấu thì doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm. Luật chỉ cấm việc đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn chứ chả có luật nào cấm đặt tên xấu cả.