Án lệ số /2017/AL về về xác định tài sản chiếm đoạt trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày tháng năm 2017 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án hình sự phúc thẩm số 722/2016/HS-PT ngày 23 và 26 tháng 12 năm 2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo S, sinh năm 1967; chỗ ở: đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/7/2014.
Nguyên đơn dân sự: Công ty A thuộc Ngân hàng B; Địa chỉ: đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 2 phần “Xét thấy” của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người nào thực hiện hành vi chiếm đoạt doanh thu, lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê để sử dụng cho mục đích cá nhân nhưng không có hành vi chiếm đoạt tài sản thuê đó.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, doanh thu, lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê đó thuộc về tài sản thuê và hành vi chiếm đoạt số tiền đó cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; “Số tiền lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và nội dung bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Khái quát một số nét về Công ty A và các Công ty xin thuê tài chính liên quan đến Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 và Hợp đồng số 119 /08/HĐ ngày 28/11/2008.
Công ty A (là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập trực thuộc Ngân hàng B, được thành lập theo Quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động theo Giấy phép của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trụ sở chính Công ty A đóng tại Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định của Nhà nước, Công ty A được triển khai các nghiệp vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 01 năm trở lên; vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn; phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên một năm; tiếp nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; được vay vốn của các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng; cho thuê tài chính; cho thuê vận hành; cho thuê hợp vốn… thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Nhà nước cho phép. Hoạt động của Công ty A về cho thuê tài chính phải tuân thủ Luật Các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997; Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ quy định cho thuê tài chính; Thông tư số 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 quy định về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. Thực hiện nghiệp vụ cho thuê, Công ty A phải chấp hành đúng quy trình cho thuê ban hành kèm theo Quyết định số 90/QĐ-HĐQT-QLDN ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B. H giữ chức vụ là thành viên Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng cho thuê Công ty A từ tháng 01/2006 đến tháng 10/2009; T, Phó tổng giám đốc phụ phụ trách cho thuê, Thành viên Hội đồng cho thuê Công ty A từ tháng 4/2004 đến 01/12/201; X, Trưởng Phòng cho thuê, Thành viên Hội đồng cho thuê, Tổ trưởng tổ cho thuê tàu biển từ 9/2005 đến 6/2010; V, Phó trưởng phòng cho thuê, Tổ phó tổ cho thuê tàu biển từ 3/2005 đến 3/2010; C, cán bộ Phòng cho thuê, thực hiện công tác thẩm định dự án và hồ sơ cho thuê từ tháng 5/2008 đến tháng 7/2015 bị buộc thôi việc.
Công ty TNHH D hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 21/12/2006 do L làm Giám đốc, ngày 07/8/2010 chuyển giao cho S làm Giám đốc điều hành công ty. Ngành, nghề kinh doanh: dịch vụ đại lý tàu biển, đại lý vận tải đường biển, đại lý môi giới hàng hải, vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương …
Công ty TNHH E hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 08/10/2008 do G làm Giám đốc, ngày 28/3/2009 chuyển giao cho R làm Giám đốc, ngày 08/4/2010 R chuyển giao S làm giám đốc. Ngành, nghề kinh doanh: dịch vụ đại lý tàu biển, vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương, đại lý vận tải đường biển.
Tháng 11/2008, H đã chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê V, Phó trưởng phòng cho thuê và C, Cán bộ phòng cho thuê của Công ty A, lập và thẩm định hồ sơ sau đó làm thủ tục cho Công ty TNHH D do L làm Giám đốc và Công ty TNHH E do G làm Giám đốc ký hợp đồng thuê tài chính (02 tàu biển) trị giá 188.903.049.700 đồng, cả 02 công ty trên sau này chuyển lại cho S làm Giám đốc chịu trách nhiệm về nghĩa vụ thuê tài chính đối với Công ty A. Hồ sơ đề nghị thuê tài chính của Công ty TNHH D thể hiện Công ty Chỉ có số vốn 1.999.455.949 đồng, trong đó có 1.084.750.521 đồng tiền mặt, còn lại 914.705.428 đồng là tài sản cố định. Công ty TNHH E có số vốn 10 tỷ đồng, trong đó có 09 tỷ đồng tiền mặt, còn lại 01 tỷ đồng là tài sản cố định. Không có tài liệu chứng minh doanh nghiệp có nguồn vốn khác như bảo lãnh tín dụng, hợp đồng vay vốn. Với năng lực tài chính như vậy thì tại thời điểm đề nghị thuê tài chính, Công ty TNHH D và Công ty TNHH E không đủ khả năng tài chính để nộp tiền đặt cọc, ký cược cũng như đảm bảo trả tiền thuê tài chính đúng cam kết. Thực hiện chủ trương mua cho thuê tàu, nên sau khi các bộ phận nghiệp vụ thẩm định xong hồ sơ cho thuê, biết không đủ điều kiện cho thuê nhưng H vẫn ký 02 Hợp đồng cho thuê tài chính gồm: Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008, cho Công ty TNHH D thuê tài chính để mua tàu Q, trị giá 94.450.000.000 đồng; Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008, cho Công ty TNHH E thuê tài chính để mua tàu Đ, trị giá: 94.453.049.700 đồng. Việc ký, thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính này gây thiệt hại cho Công ty A 244.818.888.566 đồng. Trong đó, S, Giám đốc của 02 Công ty TNHH D và Công ty TNHH E, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và gây thiệt hại cho Công ty A 118.804.099.939 đồng. Cụ thể như sau:
2. Về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của: H, T, X, V và C trong việc ký thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 và Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008.
2.1. Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008, cho Công ty TNHH D thuê tài chính để mua tàu Q:
Ngày 06/10/2008, L, Giám đốc Công ty TNHH D ký văn bản và dự án đề nghị Công ty A cho thuê tài chính tàu Q, trọng tải 4332,3 tấn trị giá 94.450.000.000 đồng của Công ty I, nguồn gốc tàu do Công ty đóng tàu Đại Dương đóng và cung ứng bán cho Công ty A. Sau khi nhận được hồ sơ xin thuê tàu, biết công ty này không đủ điều kiện thuê tài chính, H vẫn phê duyệt vào văn bản đề nghị xin thuê sau đó chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc và X, Trưởng phòng cho thuê chỉ đạo các cán bộ phòng cho thuê tiếp xúc với khách hàng để làm các thủ tục cho thuê. H cũng đã thông báo cho T và X biết Công ty TNHH D không đủ điều kiện thuê tài chính, nhưng phải làm thủ tục cho thuê. Thực hiện chỉ đạo của H, Giám đốc Công ty A, X và V đã chỉ đạo và giao cho C, cán bộ Phòng cho thuê nghiên cứu, thẩm định dự án và hồ sơ xin thuê tàu của Công ty TNHH D. Theo chỉ đạo của X và V, ngày 11/11/2008, C đã nghiên cứu thẩm định hồ sơ, dự án của Công ty TNHH D. Trước khi thẩm định, C biết việc thẩm định cho thuê tài chính chỉ là thủ tục, khi nghiên cứu hồ sơ thấy Công ty TNHH D không đủ điều kiện, năng lực tài chính, để thuê tàu nhưng theo chỉ đạo của X và V, S vẫn hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ và đã lập Báo cáo thẩm định, đề nghị duyệt cho thuê tài chính đối với Công ty TNHH D. Báo cáo thẩm định đã được V ký duyệt với nội dung: xác nhận doanh nghiệp đủ khả năng thuê tài chính và thanh toán tiền thuê, đề xuất cho thuê tàu. Ngày 17/11/2008, Công ty A đã họp Hội đồng cho thuê thành phần gồm có: H, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng, T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê, Lê Thị Tám, Phó phòng kế toán (phụ trách nguồn vốn), C, cán bộ thẩm định và Vũ Thị Thái Hà, Thư ký. Hội đồng cho thuê đã đồng ý 100% cho Công ty TNHH D thuê tàu Q. Việc các thành viên Hội đồng cho thuê hợp đồng ý ký biểu quyết cho thuê là thực hiện theo chủ trương, chỉ đạo của H nhằm để Công ty TNHH D được thuê tài chính tàu Q. Ngày 18/11/2008, H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng số 116/08/HĐ và các phụ lục hợp đồng cho Công ty TNHH D thuê tài chính tàu Q, trị giá 94.450.000.000 đồng (bao gồm thuế VAT, phí đăng kiểm, phí bảo hiểm, lệ phí trước bạ); lãi suất 1,5%/tháng, lãi suất thay đổi khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi lãi suất cơ bản; thời hạn thuê là 180 tháng; định kỳ 06 tháng phải trả nợ gốc và nợ lãi (gọi là tiền thuê tài chính) một lần với định mức cụ thể được quy định tại Điều 14 và Phụ lục 4B kèm theo hợp đồng. Để được thuê tài chính theo hợp đồng đã ký thì Công ty TNHH D phải nộp đủ tiền đặt cọc, ký cược cho Công ty A số tiền là 9.446.000.000 đồng sau khi ký hợp đồng nhưng đến ngày 24/02/2009 sau 03 tháng, Công ty TNHH D mới nộp đủ 9.446.000.000 đồng tiền đặt cọc, ký cược.
Thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ, ngày 20/11/2008 H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng mua bán số 116/2008/HĐMB với Công ty I do K, Giám đốc mua tàu Q trị giá 92.950.000.000 đồng. Từ ngày 29/12/2008 đến ngày 25/02/2009, Công ty A đã chuyển đủ 92.950.000.000 đồng cho Công ty I. Ngày 16/02/2009, Công ty I đã bàn giao tàu Q cho Công ty TNHH D.
Tại thời điểm ký hợp đồng cho thuê tài chính, Công ty TNHH D không đủ điều kiện cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật, H vẫn chỉ đạo lập các thủ tục và ký hợp đồng cho thuê tài chính. Công ty A đã không yêu cầu bên thuê đặt cọc, ký cược ngay sau khi ký hợp đồng. Việc này trái với khoản 6 Điều 23 và Điều 24, Điều 26 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, khoản 6, Điều 23 quy định bên cho thuê có quyền “Yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính…”. Điều 24, Điều 26 quy định nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê “Thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng”. Trái điểm 2.2 Mục I và 8.1 Mục I, Trái khoản 10.2 Thông tư 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn một số nội dung hoạt động cho thuê tài chính, quy định về thẩm định và quyết định cho thuê tài chính, quy định về nội dung điều kiện hợp đồng: “Công ty cho thuê tài chính xem xét quyết định cho thuê tài chính đối với bên thuê trên cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống, các điều kiện về cho thuê tài chính và khả năng trả nợ của bên thuê”. Về điều kiện cho thuê bên thuê phải có đủ các điều kiện “ Có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống khả thi, hiệu quả phù hợp với quy định của pháp luật và sử dụng tài sản thuê để thực hiện dự án đó; Có khả năng tài chính đảm bảo thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê đã cam kết”.
Vi phạm khoản 1 Điều 14 Quy định nghiệp vụ cho thuê tài chính của Ngân hàng B về quy định về lập hồ sơ cho thuê tài chính đối với khách hàng ban hành kèm Quyết định số 90/2002/HĐQT-QĐ ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B.
Đối với Công ty TNHH D sau khi ký Hợp đồng số 116/08/HĐ được thuê tàu Q công ty hoạt động theo đúng mục đích thuê tàu phục vụ cho hoạt động hợp pháp của công ty. Ngày 07/8/2010, L, làm thủ tục tại Sở Kế hoạch, Đầu tư thành phố Hải Phòng chuyển nhượng quyền sở hữu Công ty cho S làm Giám đốc, người đại diện pháp luật của Công ty TNHH D. Ngày 15/10/2010 đã lập văn bản bàn giao Công ty cho S, đứng danh Giám đốc công ty. S cam kết chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 116/2008/HĐMB với dư nợ gốc 89.647.000.000 đồng và nhận trả nợ Công ty A thay cho L tiền thuê tài chính 19.545.687.546 đồng, tổng cộng: 109.192.687.546 đồng.
Sau khi tiếp nhận Công ty TNHH D, quá trình khai thác tàu Q, S, Giám đốc công ty đã không thực hiện đúng các điều kiện cam kết của Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 được quy định tại Phụ lục số 4B/CTTC kèm hợp đồng về việc trả tiền gốc và lãi tiền thuê theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính cho Công ty A. Cụ thể: Số kỳ trả nợ là 29 kỳ, trong đó số tiền gốc trả kỳ đầu là 50.000.000 đồng, số tiền gốc trả kỳ cuối là 127.000.000 đồng nhưng S chỉ trả Công ty A được 50.000.000 đồng.
Quá trình điều hành công ty và khai thác tàu Q, tháng 01/2012 S, đại diện Công ty TNHH D ký hợp đồng với Công ty O vận chuyển gạo từ Indonesia đi Thái Lan. Sau khi nhận tiền vận chuyển, S không thực hiện đúng hợp đồng với chủ hàng, đã bỏ mặc tàu và hàng tại Cảng ở Indonesia từ ngày 09/5/2012. Ngày 03/10/2012, Tòa án tại BangKok, Thái Lan có Lệnh bắt giữ tàu Q vì sau khi nhận tiền vận chuyển, S không thực hiện hợp đồng đưa tàu hàng về Thái Lan, sử dụng tiền cho cá nhân và trả nợ hết số tiền này. Chủ hàng đã phải ứng tiền để đưa tàu về Thái Lan, sau đó yêu cầu Chủ tàu là Công ty TNHH D phải thanh toán các khoản nợ. S không thanh toán được và bỏ mặc tàu Q tại Cảng ở Indonesia. Vì không đủ khả năng tài chính để trả nợ chủ hàng, S đã có nhiều văn bản đề nghị Công ty A đàm phán với chủ hàng tại Thái Lan để giải cứu tàu Q. Công ty A đã phải chuyển 6.558.866.688 đồng để giải cứu tàu. Số tiền này S cam kết trả Công ty A, nhưng sau khi Công ty A giải cứu tàu Q về Việt Nam và có văn bản yêu cầu S phải thanh toán các khoản nợ Công ty A, S thoái thác trách nhiệm không liên lạc, bỏ trốn khỏi nơi cư trú nhằm trốn tránh việc trả nợ Công ty A. Ngày 28/12/2012, Công ty A thông báo chấm dứt Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ đối với Công ty TNHH D. Ngày 29/3/2013 Công ty A phát mại đấu giá bán tàu Q để thu hồi vốn được 11.793.600.00 đồng. Đối với Hợp đồng số 116/08/HĐ, tính đến ngày 05/02/2013 (thời điểm Công ty A phát mại đấu giá bán tàu Q) Công ty TNHH D do S làm giám đốc còn nợ Công ty A nợ gốc 89.622.000.000 đồng, nợ lãi 57.584.257.368 đồng, dư nợ này thuộc nhóm 5 có khả năng mất vốn.
Tại Kết luận giám định ngày 18/9/2015, Giám định viên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định sai phạm tại Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 ký giữa Công ty A với Công ty TNHH D trái với quy định của Nhà nước về cho thuê tài chính, gây thiệt hại tài sản Nhà nước 147.206.257.368 đồng (chưa trừ chi phí xử lý tàu và các khoản tiền ký cược, thuế đầu vào) tính đến thời điểm Công ty A thu hồi tàu Q, sau khi trừ các khoản này thiệt hại thực tế là 134.477.990.258 đồng.
2.2. Hợp đồng số 119 /08/HĐ ngày 28/11/2008, cho Công ty TNHH E thuê tài chính tàu Đ:
Ngày 04/11/2008, G, Giám đốc Công ty TNHH E ký văn bản và trình dự án đề nghị Công ty A cho thuê tài chính tàu Đ. Tàu này do Công ty đóng tàu Đại Dương là nhà cung ứng, trọng tải 4332,3 tấn trị giá 94.453.049.700 đồng. Sau khi nhận được hồ sơ xin thuê tàu, biết công ty này không đủ điều kiện thuê tài chính, H vẫn phê duyệt văn bản và dự án đề nghị xin thuê tài chính tàu Đ. Hảo đã chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc và X, Trưởng phòng cho thuê chỉ đạo cán bộ phòng cho thuê tiếp xúc với khách hàng để làm các thủ tục cho thuê. H cũng đã thông báo cho Tài và Nghị biết Công ty TNHH E không đủ điều kiện thuê tài chính. Thực hiện chỉ đạo của H, Giám đốc Công ty A, X và V đã chỉ đạo và giao cho C, cán bộ Phòng cho thuê nghiên cứu, thẩm định dự án và hồ sơ xin thuê tàu của Công ty TNHH E. Theo chỉ đạo của X và V, ngày 24/11/2008, C tiến hành nghiên cứu thẩm định hồ sơ cho thuê của Công ty TNHH E, trước khi thẩm định C biết việc thẩm định cho thuê tài chính chỉ là thủ tục, khi nghiên cứu hồ sơ thấy Công ty TNHH E không đủ năng lực tài chính, dự án thuê không khả thi, số liệu trong hồ sơ đề nghị xin thuê không đầy đủ, không đủ điều kiện để thuê tài chính, nhưng theo chỉ đạo của X và V thì C vẫn hướng dẫn Công ty TNHH E lập hồ sơ xin thuê, S đã lập, ký Báo cáo thẩm định và đề nghị duyệt cho thuê tài chính đối với Công ty TNHH E. Báo cáo thẩm định đã được V, Phó phòng cho thuê, Tổ phó tổ tàu biển ký duyệt với nội dung: doanh nghiệp đủ khả năng thuê tài chính và thanh toán tiền thuê, đề xuất cho thuê tàu. Thực hiện quy trình cho thuê, ngày 28/11/2008 Công ty A đã họp Hội đồng cho thuê gồm có: H, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng, T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê, U, Kế toán trưởng (phụ trách nguồn vốn), C, cán bộ thẩm định và Y, Thư ký Hội đồng cho thuê đã đồng ý 100% cho Công ty TNHH E thuê tàu Đ. Việc các thành viên Hội đồng cho thuê họp biểu quyết đồng ý cho Công ty TNHH E thuê tàu là thực hiện theo chủ trương và chỉ đạo của H nhằm để Công ty TNHH E được thuê tàu Đ.
Ngày 28/11/2008, Công ty A do H, Tổng giám đốc ký Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ và các Phụ lục hợp đồng cho Công ty TNHH E thuê tài chính tàu Đ, trị giá: 94.453.049.700 đồng (bao gồm thuế VAT, phí đăng kiểm, phí bảo hiểm, lệ phí trước bạ), lãi suất 1,375%/tháng, có thay đổi khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi lãi suất cơ bản; thời hạn thuê là 180 tháng; định kỳ 06 tháng phải trả nợ gốc và nợ lãi một lần với định mức cụ thể quy định tại Điều 14 và Phụ lục 4B kèm theo hợp đồng; Công ty TNHH E phải nộp đủ tiền đặt cọc, ký cược cho Công ty A số tiền là 9.446.000.000 đồng sau khi ký hợp đồng, nhưng đến ngày 07/5/2009, Công ty TNHH E mới nộp đủ số tiền đặt cọc, ký cược, quá hạn gần 5 tháng tính từ ngày ký hợp đồng. Hợp đồng này chưa được đăng ký, cung cấp thông tin tại Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ, ngày 28/11/2008 H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng mua bán số 119/2008/HĐMB với Công ty đóng tàu Đại Dương do Lê Đoàn Tám, Giám đốc mua tàu Đ trị giá 92.953.049.700 đồng. Công ty A đả trả đủ tiền mua tàu. Ngày 29/4/2009, Công ty đóng tàu Đại Dương cho Công ty TNHH E.
Tại thời điểm ký hợp đồng cho thuê tài chính, Công ty TNHH E, không đủ điều kiện cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật, H vẫn chỉ đạo lập các thủ tục và ký hợp đồng cho thuê tài chính. Công ty A đã không yêu cầu bên thuê đặt cọc, ký cược ngay sau khi ký hợp đồng. Việc này trái với: Điều 19 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính (đã được sửa đổi bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ), quy định về đăng ký cung cấp thông tin về hợp đồng cho thuê tài chính; trái khoản 6 Điều 23 và Điều 24, Điều 26 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, khoản 6, Điều 23 quy định bên cho thuê có quyền “Yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính…”. Điều 24, Điều 26 quy định nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê “Thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng”. Trái điểm 2.2 Mục I và 8.1 Mục I; Trái khoản 10.2 Thông tư 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn một số nội dung hoạt động cho thuê tài chính, quy định về thẩm định và quyết định cho thuê tài chính, quy định về nội dung điều kiện hợp đồng: “Công ty cho thuê tài chính xem xét quyết định cho thuê tài chính đối với bên thuê trên cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống, các điều kiện về cho thuê tài chính và khả năng trả nợ của bên thuê”. Về điều kiện cho thuê bên thuê phải có đủ các điều kiện “ Có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống khả thi, hiệu quả phù hợp với quy định của pháp luật và sử dụng tài sản thuê để thực hiện dự án đó; Có khả năng tài chính đảm bảo thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê đã cam kết”.
Vi phạm khoản 1 Điều 14 Quy định nghiệp vụ cho thuê tài chính của Ngân hàng B quy định về lập hồ sơ cho thuê tài chính đối với khách hàng ban hành kèm Quyết định số 90/2002/HĐQT-QĐ ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B.
Quá trình thực hiện hợp đồng thuê tài chính, ngày 28/3/2009 khi chưa nhận tàu Đ, G đã chuyển giao Công ty cho ông R làm Giám đốc để tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 119/08/HĐ. Ngày 08/4/2010, R, Giám đốc đã làm thủ tục tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng chuyển nhượng quyền sở hữu Công ty cho S làm Giám đốc, người đại diện pháp luật của Công ty TNHH E. Sau khi nhận chuyển giao công ty, S cam kết tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 119/08/HĐ với dư nợ gốc 89.730.049.700 đồng và nhận trả nợ Công ty A thay cho R tiền thuê tài chính 9.433.993.100 đồng, tổng cộng: 99.164.042.800 đồng.
Sau khi tiếp nhận Công ty TNHH E, quá trình khai thác tàu Đ, S, Giám đốc công ty đã không thực hiện đúng các điều kiện cam kết của Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008, được quy định tại Phụ lục số 4B/CTTC kèm hợp đồng về việc trả tiền gốc và lãi tiền thuê theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính cho Công ty A, quy định cụ thể: Số kỳ trả nợ là 29 kỳ, trong đó số tiền gốc trả kỳ đầu là 50.000.000 đồng, số tiền gốc trả kỳ cuối là 127.000.000 đồng nhưng S chỉ trả Công ty A được 333.060.000 đồng. Công ty A đã nhiều lần thông báo nợ quá hạn và có các biên bản làm việc, Công ty TNHH E không trả được nợ thuê tài chính, bỏ mặc tàu Đ tại Cảng Hải Phòng. Ngày 09/5/2012, Công ty A có Thông báo số 1188/2012/-KD chấm dứt Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ trước hạn và ban hành Quyết định số 1189/2012/QĐ-KD thu hồi tài sản cho thuê tài chính là tàu Đ. Ngày 07/11/2012, Công ty A bán đấu giá tàu Đ thu hồi vốn được 21.400.000.000 đồng. Đối với hợp đồng này, tính đến ngày 15/8/2012, thời điểm thu hồi tàu Đ, Công ty TNHH E do S làm giám đốc còn nợ Công ty A, nợ gốc 89.730.049.700 đồng, nợ lãi 48.069.104.572 đồng, dư nợ này thuộc nhóm 5 có khả năng mất vốn.
Tại Kết luận giám định ngày 18/9/2015, Giám định viên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định sai phạm tại Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ ngày 18/11/2008 ký giữa Công ty A với Công ty TNHH E trái với quy định của Nhà nước về cho thuê tài chính, gây thiệt hại tài sản Nhà nước 137.799.154.272 đồng (chưa trừ chi phí xử lý tàu và các khoản tiền ký cược, thuế đầu vào) tính đến thời điểm Công ty A thu tàu Đ, sau khi trừ các khoản này thiệt hại thực tế là 110.340.898.308 đồng.
Với hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Tuyên bố bị cáo S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 4 điều 140; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự,
Xử phạt S tù chung thân.
Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2014.
Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự,
- Buộc bị cáo S có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cho Công ty A thuộc Ngân hàng B số tiền là 251.387.755.234 (hai trăm năm mươi mốt tỷ ba trăm tám mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi lăm nghìn hai trăm ba mươi bốn) đồng.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/12/2015, bị cáo S có đơn kháng cáo với nội dung cho rằng không vi phạm và chịu trách nhiệm ở khoản tiền 117 tỷ đồng vì đây là quan hệ kinh tế của Doanh nghiệp với Công ty tài chính II mà chỉ sai phạm ở khoản tiền trên 1 tỷ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo S thay đổi 01 phần kháng cáo, kêu oan toàn bộ, cho rằng bị cáo không có chiếm đoạt tài sản của Công ty A như bản án sơ thẩm đã quy kết.
Quan điểm của Kiểm sát viên lập luận rằng: Trong quá trình khai thác 02 con tàu (tàu W và tàu Đ) đã có doanh thu, với số tiền chứng minh được bằng 32.295.702.417đ và 309.643,88 USD; nhưng bị cáo S cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho Công ty A theo như cam kết tại các hợp đồng C116/08/HĐ ngày 18/11/2008; hợp đồng số 119/08/CHĐ ngày 28/11/2008, mà có hành vi bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền trên cùng với khoản tiền 1.061.062.800đ do Công ty A bỏ ra trả nợ Công ty O thay cho S để giải cứu tàu đưa về Việt Nam (nằm trong số tiền 6.588.866.688đ). Nên bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo S phạm tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 là không oan; do Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chỉ 20 năm tù; áp dụng theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, nên đề nghị sửa án sơ thẩm xử phạt bị cáo S mức án 20 năm tù. Đối với phần trách nhiệm dân sự bản án sơ thẩm buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A số tiền 251.387.755.234đ là có căn cứ, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này. Đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ trách nhiệm của những người có liên quan đến khoản tiền nợ của Công ty A với số tiền bằng 28.979.680.546đ, trước khi bàn giao 02 con tàu lại cho bị cáo S.
Quan điểm bào chữa của Luật sư cho rằng: số tiền 118.126.097.139đ bản án sơ thẩm qui kết trách nhiệm hình sự đối với bị cáo S là số tiền do 02 pháp nhân của Công ty TNHH D và Công ty TNHH E nợ Công ty A; bị cáo S chỉ là người đại diện theo pháp luật của 02 công ty trên mà thôi. Tại các hợp đồng cho thuê tài chính 116, 119 ký kết giữa Công ty A với các pháp nhân Công ty TNHH D và Công ty TNHH E tài sản là 02 con tàu; 02 con tàu này S không chiếm đoạt (02 tàu đã được Công ty A thu hồi phát mãi). Trước và sau khi tàu bị thu hồi S không có bỏ trốn như bản án sơ thẩm quy kết; bởi khi con tàu Q bị phía Thái Lan bắt giữ S vẫn liên tục đề nghị Công ty A hỗ trợ giải cứu tàu; Đồng thời vào tháng 10/2012 S đã tổ chức lễ cưới tại Thành phố Hải Phòng với trên 200 người tham gia và S có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, bị cáo, nguyên đơn dân sự.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Vào các ngày 08/4/2010 và 07/8/2010 giữa R, Giám đốc Công ty TNHH E; L, Giám đốc Công ty TNHH D làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu 02 Công ty trên cho S làm Giám đốc, người đại diện theo pháp luật. Đồng thời, S đã cam kết thực hiện các nghĩa vụ trả nợ đối với các dự án thuê tài chính tàu Q và tàu Đ. Cụ thể, Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 đang còn nợ Công ty A 109.192.687.546 đồng, trong đó dư nợ gốc 89.647.000.000 đồng và L nợ tiền thuê tài chính 19.545.687.546 đồng. Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008 đang còn nợ Công ty A 99.164.042.800 đồng, trong đó dư nợ gốc 89.730.049.700 đồng và R nợ tiền thuê tài chính 9.433.993.100 đồng. Xét thấy, việc thay đổi giám đốc và người đại diện của hai công ty trên đã được Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hải Phòng chấp thuận; việc chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu 02 công ty trên của R và L cho S là hợp pháp, nên S phải có nghĩa vụ cá nhân thanh toán tiền thuê tàu trong thời gian nhận và sử dụng, khai thác 02 con tàu (tàu W và tàu Đ) cho Công ty A với số tiền 89.146.416.493 đồng; nhưng S đã thanh toán được 383.060.000 đồng, do đó S còn phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A số tiền thuê tài chính theo định kỳ là 89.108.110.493 đồng như bản án sơ thẩm xác định là có căn cứ. Tuy nhiên, ngoài khoản tiền trên bản án sơ thẩm còn quy kết S phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với số tiền nợ của R và L trước khi S nhận 02 con tàu bằng 28.979.680.546 đồng là chưa hợp lý, bởi việc trả số tiền trên còn có trách nhiệm của R và L.
Xét khoản tiền 89.146.416.493 đồng mà S có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A có chiếm đoạt không và số tiền chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu? Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư cho rằng S không có chiếm đoạt tài sản là 02 con tàu. Nhưng đối với số tiền doanh thu, lợi nhuận mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng (32.295.702.417 đồng và 309.643,88 USD), đây là số tiền hiện hữu và được xem là tài sản, nhưng S không dùng số tiền này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả tiền thuê tài chính cho Công ty A mà sử dụng cho mục đích cá nhân là đã có ý thức chiếm đoạt số tiền trên.
Xét ý kiến của luật sư bào chữa cho rằng S không bỏ trốn, vì khi tàu Q bị phía Thái Lan bắt giữ, S vẫn liên tục đề nghị Công ty A hỗ trợ giải cứu tàu; đồng thời vào tháng 10/2012 S đã tổ chức lễ cưới vợ tại thành phố Hải Phòng có nhiều người chứng kiến và có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh là không có căn cứ chấp nhận, bởi vào thời điểm tháng 10/2012 S chưa bỏ trốn, thời điểm bỏ trốn được xác định từ tháng 03/2013, cụ thể: căn cứ vào các biên bản xác minh từ tháng 03/2013 đến tháng 8/2013 S không có mặt ở nơi tạm trú, nơi thường trú, nơi đăng ký kinh doanh…. và trong quá trình điều tra rất nhiều lời khai S thừa nhận đã bỏ trốn. Mặc khác, tại phiên tòa sơ thẩm S thừa nhận đã nhiều lần nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nợ của Công ty A nhưng S vẫn lánh mặt không hợp tác. Đối với việc S có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 9/2013, đây là thời điểm sau khi S bị bắt theo Lệnh truy nã và được cho bảo lãnh tại ngoại.
Như đã phân tích trên, đủ căn cứ kết luận S đã thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty A với số tiền phải chịu trách nhiệm hình sự là 39.822.129.431 đồng (trong đó gồm số tiền mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng và số tiền 1.061.062.800 đồng do Công ty A bỏ ra trả nợ Công ty O thay cho S để giải cứu tàu đưa về Việt Nam nằm trong số tiền 6.588.866.688 đồng). Với số tiền S phải chịu trách nhiệm hình sự bằng 39.822.129.431 đồng, nên bản án hình sự sơ thẩm tuyên bố S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 và xử phạt bị cáo mức án tù chung thân là chưa tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi hậu quả gây ra. Đối chiếu với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là 20 năm tù. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội. Sửa bản án sơ thẩm theo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nên không chấp nhận kháng cáo kêu oan của S.
Xét phần trách nhiệm dân sự mà bản án sơ thẩm buộc S có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A số tiền 251.387.755.234 đồng (trong đó có số tiền 28.979.680.546 đồng mà R và L nợ Công ty A trước khi S nhận 02 con tàu) là chưa phù hợp, bởi lẽ số tiền này có liên quan đến phần trách nhiệm của R và L. Vì vậy cần hủy một phần bản án sơ thẩm về phần này, tách giao cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ đối với những người có liên quan để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Do hủy một phần bản án sơ thẩm trong phần trách nhiệm dân sự đối với số tiền 28.979.680.546 đồng nên sửa một phần án phí dân sự có giá ngạch đối với S.
Bị cáo S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
1. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với phần hình phạt của bị cáo S.
- Tuyên bố: Bị cáo S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng khoản 4 Điều 140, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo S 20 (hai mươi năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2014.
2. Hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm dân sự đối với số tiền 28.979.680.546 đồng (trong số tiền 251.387.755.234 đồng mà bản án sơ thẩm buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cho Công ty A thuộc Ngân hàng B).
Phần này tách giao cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ đối với những người có liên quan để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
3. Áp dụng điều 42 Bộ luật hình sự.
Buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A thuộc Ngân hàng B số tiền 222.308.074.688đ.
4. Về án phí: Bị cáo S phải nộp 330.308.075đ tiền án phí dân sự có giá ngạch.
5. Các phần khác của Quyết định bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Xét khoản tiền 89.146.416.493 đồng mà S có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A có chiếm đoạt không và số tiền chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu? Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư cho rằng S không có chiếm đoạt tài sản là 02 con tàu. Nhưng đối với số tiền doanh thu, lợi nhuận mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng (32.295.702.417 đồng và 309.643,88 USD), đây là số tiền hiện hữu và được xem là tài sản, nhưng S không dùng số tiền này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả tiền thuê tài chính cho Công ty A mà sử dụng cho mục đích cá nhân là đã có ý thức chiếm đoạt số tiền trên.”