Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng

Chủ đề   RSS   
  • #541307 16/03/2020

    pigreen
    Top 500
    Lớp 1

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:08/02/2020
    Tổng số bài viết (145)
    Số điểm: 2679
    Cảm ơn: 7
    Được cảm ơn 229 lần


    Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng

    Việc xác định và phân loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng luôn là đề tài gây tranh cãi; vấn đề trên không chỉ phát sinh khi có tranh chấp về ly hôn mà còn có thể xuất phát từ nguyên nhân khác.

    Bản án phúc thẩm 38/2018/DS-PT ngày 26/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau là một ví dụ điển hình, tóm tắt nội dung bản án như sau:

    “Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc T; Bị đơn: Bà Huỳnh Bích T.

    Nguyên đơn và bị đơn đăng ký kết hôn năm 1984. Năm 1987, nguyên đơn nhận chuyển nhượng đất từ bà 7 Giang, được cấp GCNQSDĐ đứng tên sở hữu của cả hai vợ chồng.

    Khi bị đơn kê khai phần đất trên để đảm bảo cho việc thi hành án để giải quyết nợ của bị đơn thì nguyên đơn không đồng ý vì cho rằng mảnh đất trên thuộc quyền sở hữu riêng của nguyên đơn, do cha mẹ nguyên đơn cho tiền để mua.

    Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất trên thuộc sở hữu của riêng ông. Bị đơn đồng ý với quan điểm của nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.  Sau đó, nguyên đơn kháng cáo.”

    Căn cứ vào nội dung bản án có thể thấy, nguyên đơn và bị đơn kết hôn năm 1984, đến năm 1987 nguyên đơn mới được nhận chuyển nhượng mảnh đất trên. Như vậy, phần đất này được nhận chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn. Sau đó, nguyên đơn và bị đơn cùng đứng tên trong đơn đề nghị xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần nêu trên và cùng quản lý sử dụng phần đất này.

    Khi Cơ quan Thi hành án dân sự xác minh điều kiện thi hành án của bị đơn để giải quyết nợ, bị đơn cũng kê khai phần đất này là tài sản chung của vợ chồng. Đến khi Cơ quan Thi hành án dân sự có Quyết định cưỡng chế kê biên phần đất này để thi hành án đối với số tiền bị đơn phải trả cho chủ nợ thì nguyên đơn mới có yêu cầu xác định phần đất này là tài sản riêng của bị đơn.

    Mặc dù, bị đơn thống nhất với trình bày và yêu cầu của nguyên đơn, nhưng xét thấy yêu cầu của nguyên đơn và sự thống nhất của bị đơn là có dấu hiệu thông đồng nhau nhằm để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của bị đơn.

    Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố giữ nguyên bản án sơ thẩm, không công nhận yêu cầu khởi hiện của nguyên đơn.

    Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng đối với quyền sử dụng đất như sau:

    Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

    “…

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    …”

    Cập nhật bởi pigreen ngày 16/03/2020 11:54:48 CH
     
    18320 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn pigreen vì bài viết hữu ích
    yuanping (05/06/2020)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #542503   31/03/2020

    anthuylaw
    anthuylaw
    Top 50
    Female
    Lớp 9

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:29/04/2017
    Tổng số bài viết (1322)
    Số điểm: 11747
    Cảm ơn: 252
    Được cảm ơn 273 lần


    Tóm lại là Không phải mọi trường hợp tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì đây là tài sản riêng.

    Không có gì là không thể.

     
    Báo quản trị |  
  • #542589   31/03/2020

    Không phải mọi tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung. Tùy thuộc vào tài sản được hình thành như thế nào, thỏa thuận giữa các bên trước hôn nhân. Vì vậy không thể đánh đồng toàn bộ tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân là tài sản chung.

     
    Báo quản trị |  
  • #545050   30/04/2020

    MewBumm
    MewBumm
    Top 50
    Male
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/09/2017
    Tổng số bài viết (2007)
    Số điểm: 13688
    Cảm ơn: 16
    Được cảm ơn 256 lần


    Tiêu đề bài viết của bạn dễ gây nhầm lẫn đối với người đọc. Không phải tất cả tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được xem là tài sản chung. Ví dụ trường hợp tài sản đó được hình thành từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì tài sản hình thành đó vẫn được xem là tài sản riêng.

     
    Báo quản trị |  
  • #545347   02/05/2020

    Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng

    Vấn đề này nên được phân chia rõ ràng từ người trong cuộc để tránh tình trạng tranh chấp sau này. Nên để họ thoả thuận từ đầu về tài sản nào là chung và riêng trước khi kết hôn và có giấy tờ kí kết rõ ràng. Cũng có những tài sản trong hôn nhân mà vẫn được xem là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, cụ thể là tài sản được hưởng từ thừa kế.

    Cập nhật bởi thuytien317 ngày 03/05/2020 12:11:23 SA
     
    Báo quản trị |  
  • #545835   11/05/2020

    vấn đề cần phải xác nhận ở đây là việc công nhận tài sản riêng trong khối tài sản chung của 2 vợ chồng khi khhong phải thực hiện nghĩa vụ chung thì việc từ chối sẽ đơn giản nhưng nếu đã có nghĩa vụ phải thực hiên trong khối ài sản chung ấy thì việc công nhận ts riêng phải do tòa án xem xét và công nhận không thì không đc tách

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn Caogiabn vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (11/05/2020) viethungkta56 (21/08/2020)
  • #546987   25/05/2020

    ChanhLe96
    ChanhLe96
    Top 150
    Female
    Lớp 3

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:08/07/2019
    Tổng số bài viết (560)
    Số điểm: 4470
    Cảm ơn: 17
    Được cảm ơn 110 lần


    Tòa án sơ thẩm bác đơn khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp. Thứ nhất là tài sản trên hình thành trong thời kỳ hôn nhân, thứ hai là tài sản là quyền sử dụng đất do cả 2 vợ chồng là nguyên đơn và bị đơn đứng tên. Như vậy, rõ ràng đây là tài sản chung của vợ chồng hai người họ.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn ChanhLe96 vì bài viết hữu ích
    viethungkta56 (21/08/2020)
  • #548240   02/06/2020

    anthuylaw
    anthuylaw
    Top 50
    Female
    Lớp 9

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:29/04/2017
    Tổng số bài viết (1322)
    Số điểm: 11747
    Cảm ơn: 252
    Được cảm ơn 273 lần


    Theo quy định hiện hành thì: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Không có gì là không thể.

     
    Báo quản trị |  
  • #548719   08/06/2020

    TranThao0902
    TranThao0902
    Top 500


    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:24/03/2020
    Tổng số bài viết (284)
    Số điểm: 1665
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 17 lần


    Việc xác định tài sản chung phải dựa vào chế độ tài sản của vợ chồng.

    -Nếu chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì sẽ theo thỏa thuận đó để xác định tài sản chung của vợ chồng.

    - Nếu chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì sẽ những tài sản chung của vợ chồng sẽ là những tài sản của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân,tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
     
    - Những Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
     
     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranThao0902 vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (09/06/2020)
  • #550469   29/06/2020

    HNP1997
    HNP1997
    Top 150
    Male
    Lớp 3

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:02/05/2019
    Tổng số bài viết (565)
    Số điểm: 4635
    Cảm ơn: 25
    Được cảm ơn 194 lần


    Tiền của anh là tiền của em, tiền của em cũng là tiền của em...Thiết nghĩ để cánh mày râu khỏi phải chịu cảnh bần hàn nếu chẳng may có cơ sự gì...thì các anh nên chuẩn bị trước cho mình một hợp đồng tiền hôn nhân để thỏa thuận phân chia tài sản trước thì may ra còn có cám mà ăn.

     
    Báo quản trị |  
  • #550730   30/06/2020

    MewBumm
    MewBumm
    Top 50
    Male
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/09/2017
    Tổng số bài viết (2007)
    Số điểm: 13688
    Cảm ơn: 16
    Được cảm ơn 256 lần


    Về vấn đề của chủ bài viết thì mình thấy trong quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2014 đã quy định rõ ràng. Không phải tài sản nào hình thành trong thời ký hôn nhân cũng là tài sản riêng. Tuy nhiên, thực tế, trong một số trường hợp thì việc tranh chấp tài sản chung, tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng rất phức tạp, cần có nhiều vấn đề cần chứng minh thì mới xác định được.

     
    Báo quản trị |  
  • #550771   30/06/2020

    huynhthu95
    huynhthu95
    Top 50
    Female
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:05/06/2017
    Tổng số bài viết (1262)
    Số điểm: 12550
    Cảm ơn: 61
    Được cảm ơn 204 lần


    Việc xác nhận tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thực tế cũng nhiều bất cập. Ví dụ như công ty TNHH một thành viên của riêng vợ hoặc chồng, dù biết là công sức, tài sản riêng để vận hành công ty nhưng nếu không có văn bản phân chia rõ ràng thì cũng là tài sản chung.

     
    Báo quản trị |  
  • #550855   30/06/2020

    TranThao0902
    TranThao0902
    Top 500


    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:24/03/2020
    Tổng số bài viết (284)
    Số điểm: 1665
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 17 lần


    Tóm lại là không phải tất cả tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định tài sản chung còn dựa vào thỏa thuận của vợ chồng, nguồn gốc tài sản,...Tuy nhiên trên thực tế việc chứng minh trường hợp tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân là tài sản riêng cũng rất khó.  

     
    Báo quản trị |  
  • #551300   05/07/2020

    phamthiloan20081998
    phamthiloan20081998

    Female
    Sơ sinh

    Bình Định, Việt Nam
    Tham gia:18/06/2020
    Tổng số bài viết (22)
    Số điểm: 140
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 1 lần


    Việc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong thời ký hôn nhân hiện nay có nhiều quan điểm khác biệt nhau dẫn tới nhiều tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong quá trình giải quyết ly hôn. 

    Đối với tranh chấp của đương sự trong vụ án ly hôn ở trên, có thể xác định được tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng theo trình tự như sau:

    Nguyên đơn và bị đơn kết hôn năm 1984, lúc này Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đang có hiệu lực, vì vậy, áp dụng luật năm 1959 để điều chỉnh quan hệ hôn nhân của các đương sự, đối chiếu quy định của pháp luật tại thời điểm này xác định quan hệ hôn nhân giữa hai người là hoàn toàn hợp pháp. Cũng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, không tồn tại chế định tài sản riêng của vợ, chồng mà chỉ có một chế độ tài sản duy nhất áp dụng cho vợ chồng là chế định tài sản chung, thông qua quy định tài Điều 15 như sau: 

    "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới".

    Như vậy, tài sản tạo lập trước khi kết hôn của mỗi bên đều được xác định là tài chung của vợ chồng sau khi hai bên xác lập quan hệ hôn nhân, theo đó, tài sản mà đương sự tạo lập trong thời kỳ mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực đều là tài sản chung của vợ chồng, chế định tài sản riêng sẽ không được đặt ra. Tuy nhiên, tài sản các bên tranh chấp không được tạo lập tại thời điểm luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực

    Tài sản mà các bên tranh chấp là quyền sử dụng đất được tạo lập năm 1987, thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (01/01/1987) cần phải xác định rằng, tài sản được tạo lập thời điểm nào thì áp dụng luật đang có hiệu lực tại thời điểm đó để điều chỉnh.  Đương sự kết hôn vào năm 1984 - thời điểm luật năm 1959 đang có hiệu lực, còn tài sản được tạo lập năm 1987, lúc này Luật năm 1959 đã hết hiệu lực, không phải cứ áp dụng một cách bất di bất dịch luật có hiệu lực tại thời điểm kết hôn để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng mà có những trường hợp luật có hiệu lực tại thời điểm tạo lập tài sản và luật tại thời điểm kết hôn là khác nhau, đối chiếu với nội dung bản án, có thể xác định, tại thời điểm các đương sự xác lập tài sản luật đang có hiệu lực là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986,  và luật này sẽ được áp dụng để điều chỉnh đối với tài sản các bên đang tranh chấp, cụ thể áp dụng để xác định tài sản chung, tài sản riêng.

    Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, có tồn tại chế định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, theo đó tài sản mà đương sự đang tranh chấp được xác định hoặc tài sản chung hoặc tài sản riêng. Xem xét giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận đứng tên cả hai vợ chồng, nghĩa là về mặt ý chí, cả hai thừa nhận quyền sở hữu của nhau đối với tài sản này. Do vậy, có căn cứ để xác định đây là tài sản chung của hai vợ chồng. 

    Việc nguyên đơn cho rằng đây là tài sản riêng của bị đơn là không phù hợp, bởi lẽ tại thời điểm tạo lập tài sản về mặt ý chí các bên đều thừa nhận quyền sở hữu của mình và của đối phương đối với tài sản thông qua việc giấy chứng nhận đứng tên cả hai vợ chồng. Cần hiểu rằng, nếu không có căn cứ thì cơ quan nhà nước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tùy tiện khi để cả hai vợ chồng cùng đứng tên nếu đương sự không yêu cầu. Do vậy, tài sản đang tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng nguyên đơn và bị đơn chứ không phải là tài sản riêng của bị đơn.

    Vấn đề áp dụng pháp luật nào để điều chỉnh quan hệ đang tranh chấp hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau và việc áp dụng cũng chưa đồng nhất, nhưng về nguyên tắc, quan hệ xác lập tại thời điểm nào thì áp dụng luật đang có hiệu lực tại thời điểm đó để điều chỉnh quan hệ, không thể áp dụng luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong trường hợp này, bởi lẽ tại thời điểm tạo lập tài sản, đương sự đâu thể biết được vào năm 2014 sẽ có Luật để điều chỉnh quan hệ tài sản của họ, mà phải áp dụng luật tại thời điểm tạo lập tài sản, điều này phù hợp với ý chí của đương sự, giả sử nếu Luật năm 2014 có những quy định trái với ý chí của đương sự và trái với quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập tài sản thì việc áp dụng luật năm 2014 có còn phù hợp hay không? Quyền lợi của đương sự có bị ảnh hưởng hay không? Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ được áp dụng để xác định cách chia như thế nào đối với tài sản chứ không có ý nghĩa xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, kể cả các quy định của cả hai luật đều giống nhau thì việc áp dụng pháp luật phải đúng với bản chất tranh chấp.

     

     
    Báo quản trị |  
  • #552384   21/07/2020

    danluan123
    danluan123
    Top 50
    Male
    Lớp 7

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/07/2020
    Tổng số bài viết (1195)
    Số điểm: 8720
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 96 lần


    Bản chất quan hệ hôn nhẫn vẫn là sự thỏa thuận trong dân sự. Tài sản hình thành trong tương lai không áp dụng chế độ tài sản của cả vợ và chồng. Đơn cử như vợ chồng tự thỏa thuận tài sản riêng của nhau và từ tài sản riêng đó hình thành nên tài sản hình thành trong tương lai. Thì bản chất vẫn là tài sản riêng.

     
    Báo quản trị |  
  • #555679   25/08/2020

    Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình thì:

    “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tại ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này;

    tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”

     

     
    Báo quản trị |  
  • #556167   30/08/2020

    Thanhulaw94
    Thanhulaw94

    Male
    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/08/2020
    Tổng số bài viết (63)
    Số điểm: 450
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1 lần


    Theo nguyên tắc tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nếu không có thỏa  thuận hoặc chứng minh được tài sản riêng của mình thì được xem tài sản chung (trừ một số trường hợp). Khi được xem là tài sản chung thì khi xảy ra tranh chấp có thể xem xét đến việc công sức đóng góp, tuy nhiên việc này xác định cũng rất khó khăn chứ không phải đơn giản.

     
    Báo quản trị |