Tại phiên tòa sơ thẩm chiều ngày 20/3/2024, trong phần tự bào chữa cho mình, bà Trương Mỹ Lan nói bà nhiều lần xin tại ngoại để làm việc với nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài để tái cấu trúc SCB và khắc phục hậu quả. Như vậy, tại ngoại là gì? Khi nào các bị can, bị cáo được tại ngoại?
Tại ngoại là gì?
Thông tin thêm về vụ việc:
Theo báo Tiền Phong đưa tin, sau khi nghe bà Lan trình bày việc bà nhiều lần xin tại ngoại, chủ toạ phiên toà nói rằng nếu có nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài nào đó như bị cáo nói muốn khắc phục hậu quả giúp bị cáo thì HĐXX tạo điều kiện tối đa để bị cáo được gặp ngay tại giai đoạn xét xử này.
"Tuy nhiên, bị cáo phải nói là nhà đầu tư nước ngoài nào và có thể thông qua luật sư làm đơn gửi HĐXX xem xét chứ không thể nói chung chung" - chủ toạ giải thích.
Vậy, tại ngoại là gì?
Theo thủ tục tố tụng thông thường, một hoặc nhiều người sau khi bị Viện Kiểm sát khởi tố thì sẽ bị Cơ quan điều tra tạm giam để phục vụ công tác điều tra và tránh việc các bị can, bị cáo đi khỏi nơi cư trú nhằm trốn án.
Tuy nhiên, tùy từng vụ án cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét không phải tạm giam các bị can, bị cáo. Điều này chính là cho phép bị can, bị cáo tại ngoại.
Theo Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Theo Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định biện pháp đặt tiền đảm bảo là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Theo Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Theo các quy định trên, có thể coi bão lĩnh và đặt tiền đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú là các hình thức để được tại ngoại.
Tuy nhiên, bị can, bị cáo khi được triệu tập vẫn phải đến Tòa án và Cơ quan điều tra và khi có bản án hay quyết định của Tòa vẫn phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, tại ngoại là thuật ngữ dùng để chỉ trường hợp bị can, bị cáo không bị giam giữ trong quá trình điều tra và xét xử.
Khi nào các bị can, bị cáo được tại ngoại?
Theo Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về tạm giam như sau:
- Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
- Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
- Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
+ Tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Như vậy, ngoại trừ các trường hợp bắt buộc phải bị tạm giam nêu trên, các bị can, bị cáo tuỳ theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, điều kiện, hoàn cảnh mà sẽ được xem xét cho tại ngoại.
Ai là người có thẩm quyền cho bị can, bị cáo tại ngoại?
Khoản 1 Điều 133 Bộ luật TTHS 2015 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Như đã phân tích ở trên, các hình thức để được tại ngoại bao gồm bảo lĩnh, đặt tiền đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú. Tuỳ theo hình thức mà cơ quan có thẩm quyền cho phép bị can, bị cáo tại ngoại sẽ khác nhau. Cụ thể như sau:
1) Đối với bị can, bị cáo tại ngoại theo hình thức bảo lĩnh
Theo Khoản 4 Điều 121 Bộ luật TTHS 2015, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh.
Riêng quyết định bảo lĩnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2) Đối với bị can, bị cáo tại ngoại theo hình thức đặt tiền bảo đảm
Theo Khoản 3 Điều 122 Bộ luật TTHS 2015, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm.
Riêng quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
3) Đối với bị can, bị cáo tại ngoại theo hình thức cấm đi khỏi nơi cư trú
Theo Khoản 3 Điều 123 Bộ luật TTHS 2015, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Như vậy, bị can, bị cáo sau khi bị truy tố có thể được tại ngoại chứ không bắt buộc bị tạm giam. Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại sẽ được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật.