Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả đối với sản phẩm do mình tạo ra và đảm bảo sự bảo hộ của pháp luật đối với tác phẩm thì cá nhân, tổ chức tạo ra tác phẩm cần đăng ký quyền tác giả. Vậy để tác phẩm được đăng ký quyền tác giả thì cần đáp ứng điều kiện gì?
1. Quyền tác giả là gì?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 thì quyền tác giả được định nghĩa là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo đó thì người tạo ra tác phẩm sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm đó hoặc một cá nhân, tổ chức sở hữu tác phẩm nào đó cũng sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm đó.
2. Các loại hình tác phẩm được đăng ký quyền tác giả
Các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được đăng ký quyền tác giả bao gồm (Khoản 5 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009):
- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
- Tác phẩm báo chí;
- Tác phẩm âm nhạc;
- Tác phẩm sân khấu;
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
- Tác phẩm nhiếp ảnh;
- Tác phẩm kiến trúc;
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Ngoài ra đối với tác phẩm phái sinh cũng được bảo hộ quyền tác giả nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Bên cạnh việc quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả thì pháp luật còn quy định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả, cụ thể (Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ 2005):
- Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin.
- Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
3. Điều kiện đăng ký quyền tác giả
Khi một tác phẩm được ra đời dù đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký thì quyền tác giả đối với tác phẩm đó vẫn được phát sinh và được bảo hộ nhưng cần đáp ứng các điều kiện sau:
Về tác phẩm:
- Tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
- Tác phẩm được tác giả trực tiếp tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
- Thuộc một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả (đã được trình bày tại mục 2).
Về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả:
- Là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
- Về đối tượng tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Khoản 2 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005).
Như vậy, một tác phẩm được sáng tạo ra sẽ được bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng các điều kiện quy định về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, tác phẩm được tạo ra bằng lao động trí tuệ mà không sao chép từ người khác, tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định và thuộc một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo quy định pháp luật.