Khi hai người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì họ đã tự từ bỏ những quyền lợi nhất định và cũng sẽ không được pháp luật bảo vệ.
Pháp luật không cấm việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, tuy nhiên để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình thì tại Điều 5 Luật HNGĐ nghiêm cấm các hành vi:
1.Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
2.Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Nam, nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng không đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Vậy quyền và nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết như thế nào?
Vấn đề về quyền, nghĩa vụ đối với con của nam, nữ chung sống như vợ chồng được giải quyết theo quy định của Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Vấn đề về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.