Chào bạn, về vấn đề nay mình có một số điều chia sẻ như sau, hi vọng sẽ giúp ích cho bạn.
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. (Khoản 5, Điều 3)
Quy định tại Khoản 1, Điều 9, Luật HNGĐ về đăng kí kết hôn:
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
=> Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên cần xem xét một số trường hợp được nêu dưới đây
Việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được chia ra các trường hợp sau:
1. Tại khoản 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: "Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đinh 1986 có hiệu lực) mà chưa có đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, tòa án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung".
=> Trường hợp này pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng mặc dù không đăng ký kết hôn
2. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001:
Trường hợp này, nếu có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật thì phải đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm và cần chú ý như sau:
+ Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu chưa đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng
+ Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng
+ Kể từ sau ngày 01/01/2003 mới đăng ký kết hôn quan hệ vợ chồng chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn.
3. Đối với trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng
Như vậy: Những trường hợp sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thuộc những trường hợp mà pháp luật không CÔNG NHẬN thì không được bảo vệ theo chế độ vợ và chồng theo Luật HNGĐ 2014. Còn việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn và các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 5 và Điều 8 Luật HNGĐ 2014 thì mới được coi là vi phạm pháp luật bạn nhé.
Cập nhật bởi TuyenBig ngày 02/05/2018 02:54:01 CH
Cập nhật bởi TuyenBig ngày 02/05/2018 01:42:54 CH