Sáng chế tại nước ngoài có được kinh doanh ở Việt Nam?

Chủ đề   RSS   
  • #593274 31/10/2022

    nguyenhoaibao12061999
    Top 25
    Dân Luật bậc 1

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:03/08/2022
    Tổng số bài viết (2261)
    Số điểm: 78451
    Cảm ơn: 100
    Được cảm ơn 2003 lần


    Sáng chế tại nước ngoài có được kinh doanh ở Việt Nam?

    Thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn luôn là một trong những chính sách được ưu tiên. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp, người Việt Nam tại nước ngoài muốn trở về Việt Nam đầu tư kinh doanh.
     
    Trong trường hợp sản phẩm đã đăng ký sáng chế tại nước ngoài nhưng cá nhân muốn mang sản phẩm đó về Việt Nam kinh doanh thì được thực hiện thế nào?
     
    sang-che-tai-nuoc-ngoai-co-duoc-kinh-doanh-o-viet-nam
     
    1. Sản phẩm sáng chế là gì?
     
    Hiện hành, quy định cụ thể tại khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 giải thích sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
     
    Điều kiện của một sáng chế phải là giải pháp kỹ thuật và các giải pháp này phải có tính mới, có trình độ sáng tạo và dựa vào bản chất của nó có thể được sản xuất hoặc sử dụng trong bất kỳ ngành công nghiệp nào.
     
    2. Sáng chế nước ngoài phải đăng ký bảo hộ
     
    Trong trường hợp sáng chế được bảo hộ tại nước ngoài, tuy nhiên để kinh và tránh các rủi ro về tranh chấp sở hữu trí tuệ về sau thì người sở hữu sáng chế phải đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
     
    Do đó, nếu muốn sản xuất hay bán sản phẩm này, thì phải đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam và quyền đó được nhà nước Việt Nam chấp thuận cấp văn bằng bảo hộ.
     
    Việc đăng ký sáng chế đối với sản phẩm theo đó,phải đáp ứng được Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ.
     
    (1) Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế:
     
    - Có tính mới.
     
    - Có trình độ sáng tạo.
     
    - Có khả năng áp dụng công nghiệp.
     
    (2) Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích:
     
    - Có tính mới.
     
    - Có khả năng áp dụng công nghiệp.
     
    Khi đáp ứng được các điều kiện trên thì có thể sản xuất, kinh doanh thương mại đối với sản phẩm đó tại Việt Nam. 
     
    Trong trường hợp nếu người đăng ký bảo hộ không thể sang Việt Nam để thực hiện hay giám sát có thể uỷ quyền cho cơ quan, người đại diện sở hữu trí tuệ tại Việt Nam thực hiện các công việc này.
     
    3. Đơn đăng ký sáng chế 
     
    Khi đăng ký sáng chế, bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện về sáng chế thì còn phải đáp ứng được đơn đăng ký sáng chế theo Điều 102 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:
     
    Tài liệu xác định sáng chế cần bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế bao gồm:
     
    (1) Bản mô tả sáng chế (phần mô tả sáng chế, phạm vi bảo hộ sáng chế).
     
    *Điều kiện phần mô tả sáng chế:
     
    - Bộc lộ đầy đủ và rõ ràng bản chất của sáng chế đến mức căn cứ vào đó người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được sáng chế đó.
     
    - Giải thích vắn tắt hình vẽ kèm theo, nếu cần làm rõ thêm bản chất của sáng chế.
     
    - Làm rõ tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế.
     
    *Điều kiện của phạm vi bảo hộ sáng chế: 
     
    - Phải được thể hiện dưới dạng tập hợp các dấu hiệu kỹ thuật cần và đủ để xác định phạm vi quyền đối với sáng chế.
     
    - Phải phù hợp với phần mô tả sáng chế và hình vẽ.
     
    (2)  Bản tóm tắt sáng chế. 
     
    Bản tóm tắt sáng chế phải bộc lộ những nội dung chủ yếu về bản chất của sáng chế.
     
    4. Nhượng quyền sử dụng sáng chế
     
    Khi người sở hữu sáng chế không đủ điều kiện đăng ký sáng chế hoặc không đủ tiềm lực thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng muốn đưa sản phẩm về Việt Nam kinh doanh thì có thể nhượng quyền sáng chế lại cho doanh nghiệp tại Việt Nam.
     
    Theo đó, tại Điều 284 Luật Thương mại 2005 quy định nhượng quyền thương mại là việc bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
     
    Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
     
    Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
     
    Như vậy, để có thể kinh doanh sản phẩm đăng ký sáng chế tại nước ngoài tại Việt Nam thì người sở hữu phải đăng ký sáng chế lại khi kinh doanh tại Việt Nam. Trường hợp không thể đăng ký sáng chế tại Việt Nam thì người này có thể nhượng quyền cho doanh nghiệp tại Việt Nam để kinh doanh sáng chế đó. 
     
    1042 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn nguyenhoaibao12061999 vì bài viết hữu ích
    admin (29/03/2023)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #593514   31/10/2022

    dtlanh99
    dtlanh99
    Top 150
    Lớp 3

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:16/12/2021
    Tổng số bài viết (568)
    Số điểm: 4103
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 55 lần


    Sáng chế tại nước ngoài có được kinh doanh ở Việt Nam?

    Cảm ơn chia sẻ của bạn. Theo quan điểm của mình, trong trường hợp đã đăng ký bảo hộ sáng chế ở nước ngoài thì không thể đăng ký lại tại Việt Nam do không đảm bảo được tính mới. Một sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.

    Như vậy có thể xác định, trường hợp sản phẩm của công ty nước ngoài đã đăng ký bảo hộ sáng chế, tức sản phẩm sáng chế này đã được bộc lộ công khai tại nước ngoài. Do vậy công ty tại Việt Nam được xác định là không đủ điều kiện để đăng ký bảo hộ sáng chế tại Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành. Vì vậy chỉ có thể đi theo hướng nhượng quyền cho doanh nghiệp tại Việt Nam để kinh doanh sáng chế đã đăng ký bảo hộ.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn dtlanh99 vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (02/11/2022)
  • #594220   26/11/2022

    concobebee
    concobebee
    Top 500
    Mầm

    Vietnam
    Tham gia:26/09/2022
    Tổng số bài viết (173)
    Số điểm: 980
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 28 lần


    Sáng chế tại nước ngoài có được kinh doanh ở Việt Nam?

    Bài viết rất hay và bổ ích, cung cấp nhiều thông tin cần thiết cho những trường hợp muốn đem sáng chế tại nước ngoài về kinh doanh tại Việt Nam.Theo đó, để kinh doanh và tránh các rủi ro về tranh chấp sở hữu trí tuệ về sau thì người sở hữu sáng chế phải đăng ký bảo hộ tại Việt Nam. Việc đăng ký sáng chế đối với sản phẩm theo đó, phải đáp ứng được Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ.

     

    Đồng thời, tôi nghĩ cũng cần phải lưu ý đến quy định về một trong những điều kiện để sáng chế được bảo hộ là “tính mới”

     

    Cụ thể, Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2019

     

    “Điều 60. Tính mới của sáng chế

    1. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.

    2. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.

    3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày bộc lộ.

    4. Quy định tại khoản 3 Điều này cũng áp dụng đối với sáng chế được bộc lộ trong đơn đăng ký sở hữu công nghiệp hoặc văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp công bố trong trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc đơn do người không có quyền đăng ký nộp.”

     

    Như vậy, cần căn cứ vào những quy định cụ thể trên đây để xác định được như thế nào là tính mới và sáng chế muốn đăng ký để bảo hộ có còn tính mới hay không, từ đó làm cơ sở để tiến hành các thủ tục đăng ký một cách hợp lý.

     
     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn concobebee vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (28/11/2022)