Tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) vẫn luôn là chủ đề khó giải quyết và đặt ra nhiều khó khăn cần giải quyết cho cơ quan điều tra, xét xử. Để xét xử đúng quy định pháp luật đất đai cũng như trình tự, thủ tục tố tụng thì cơ quan xét xử cần phải thận trọng, kiểm tra kỹ trong từng quyết định được đưa ra.
Thông qua công tác giải quyết “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.
Tóm tắt vụ việc:
Cha mẹ các ông bà: ông N, ông Th, bà T, ông B, ông T, ông K, bà L có nhận chuyển nhượng diện tích đất tại thôn T, xã C, thị xã C, tỉnh Y. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình tiếp tục mở rộng khai hoang và được chính quyền xã xác nhận năm 1985.
Năm 1994, địa phương mượn một khoản đất để làm sân bóng, khi Nhà nước thu hồi một phần diện tích đất để làm khu dân cư, thì bà Mai kê khai và lấy phần đất phía đông của gia đình ông.
Tuy nhiên, bà M cho rằng diện tích đất tranh chấp do bà và mẹ bà khai hoang và sử dụng từ năm 1978. Sau đó, ông N kiện bà M ra TAND thị xã C, tỉnh Y.
Quá trình giải quyết của tòa án sơ thẩm
Tại bản án sơ thẩm Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2019/QĐST- DS ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Y, Quyết định số 01/2019/QĐ-SCBSQĐ ngày 21/01/2019, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể:
Ông Lê Tấn N giao cho bà Phạm Thị M số tiền 110 triệu đồng và ký giấy giao nhận tiền ngày 05/01/2019.
Ông Lê Tấn N đại diện cho các đồng nguyên đơn được sở hữu số tiền Nhà nước giải phóng mặt bằng khu dân cư bồi thường, hỗ trợ diện tích đất 640,4m2 thuộc thửa đất sổ 2, tờ bản đồ số 25 tọa lạc tại thôn T, xã C, thị xã C, tỉnh Y với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 83.809.000 đồng.
Ông Lê Tấn N đại diện cho các đồng nguyên đơn trọn quyền sử dụng diện tích đất còn lại 309,9m2 không bị thu hồi giải phóng mặt bằng khu dân cư và trọn quyền sở hữu cây dương có trên đất thuộc thửa đất số 335, tờ bản đồ địa chính số 25 tọa lạc tại T, xã C, thị xã C, tỉnh Y.
Ông Lê Tấn N đại diện cho các đồng nguyên đơn có quyền liên hệ với UBND cấp có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 309,9m2 theo quy định của pháp luật và liên hệ với Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã C, tỉnh Y để nhận sổ tiền bồi thường, hỗ trợ là 83.809.000 đồng...
Quá trình kháng nghị lên TAND cấp cao
Ngày 24/12/2021 UBND thị xã C, tỉnh Y nhận thấy sai phạm trong quá trình giải quyết vụ án nên đã có Công văn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm số 3883/UBND-NC ngày 24/12/2021 đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2019/QĐST-DS ngày 16/01/2019 đã có hiệu lực pháp luật của TAND thị xã C, tỉnh Y.
Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 23/2022/DS-GĐT ngày 20/4/2022, quyết định: Hủy toàn bộ Quyết định của TAND thị xã C, tỉnh Y về vụ án dân sự “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Lê Tấn N và các đồng nguyên đơn khác với bị đơn bà Phạm Thị M; Giao hồ sơ vụ án cho TAND thị xã C để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án
Thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, gia đình ông Nhất có đơn yêu cầu UBND thị xã C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình xác minh, xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông N theo đề nghị giám đốc thẩm đối với Quyết định nêu trên và cung cấp các tài liệu, chứng cứ thể hiện như sau:
- Ngày 24/9/2021 kiểm tra thực địa, phần đất gia đình ông N được giao tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên có tọa độ khác với tọa độ phần diện tích mà ông Nhất đã rào trên thực tế.
- Theo Báo cáo số 3470/BC-CN.VPĐKĐĐ và Bản đồ địa chính xã C thì trong số 309,9m2 đất giao cho gia đình ông N thì có 102m2 đất nằm trong diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Thanh Q và bà Phạm Thị H.
- Ngoài ra, diện tích đất tranh chấp có phần diện tích do UBND xã C quản lý.
Như vậy, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm ban hành là không phù hợp với thực tế, dẫn đến việc thi hành án gặp trở ngại, khó khăn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba, vi phạm điều cấm được quy định tại Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Từ vụ án trên VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKS dân tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.