Rút kinh nghiệm giải quyết VAHC về “Khiếu kiện quyểt định hành chính trong lĩnh vực đất đai ”

Chủ đề   RSS   
  • #582855 22/04/2022

    ChuTuocLS
    Top 150
    Female
    Đại học

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:25/07/2009
    Tổng số bài viết (581)
    Số điểm: 44833
    Cảm ơn: 54
    Được cảm ơn 1148 lần


    Rút kinh nghiệm giải quyết VAHC về “Khiếu kiện quyểt định hành chính trong lĩnh vực đất đai ”

    I. NỘI DUNG VỤ ÁN
     
    Thực hiện dự án xây dựng công trình Khu dân cư xã T, huyện S, tỉnh Q, ngày 24/8/2017, UBND huyện S ban hành Quyết định số 2727/QĐ-UBND, thu hồi đất của ông Nguyễn Khánh M diện tích 630,6m2 đất, thuộc thửa số 1323 tờ bản đồ số 12, loại đất HNK (đất hàng năm khác).
     
    Ngày 31/8/2017, UBND huyện S ban hành Quyết định số 2972/QĐ-UBND về bồi thường, hồ trợ cho ông M với tổng số tiền 75.672.000 đồng. Ông M khiếu nại đề nghị xác định 630,6m2 đất bị thu hồi là đất ở.
     
    Tại Quyết định số 4001/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của Chủ tịch UBND huyện S về giải quyết khiếu nại, nội dung: Bác khiếu nại của ông M. ông M tiếp tục khiếu nại.
     
    Ngày 09/7/2018, Chủ tịch UBND tỉnh Q ban hành Quyết định số 1079/QĐ- UBND về giải quyết khiếu nại, nội dung: Bác khiếu nại của ông M.
     
    Ngày 04/4/2019, ông M khởi kiện yêu cầu Tòa án: Hủy Quyết định số 2727 về thu hồi đất; Quyết định số 4001 về giải quyết khiếu nại (lần đầu) và Quyết định số 1079 về giải quyết khiếu nại (lần 2).
    tranh-chap-thu-hoi-dat
     
    II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
     
    1. Bàn án hành chính sơ thẩm số 22/2019/HC-ST ngày 07/11/2019, của TAND tỉnh Q quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Khánh M.
     
    Sau khi xét xử sơ thẩm, ông M kháng cáo bản án sơ thẩm.
     
    2. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 86/2020/HC-PT ngày 25/6/2020 của TAND cấp cao quyết định: Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Khánh M, sửa Bản án sơ thẩm, xử:
     
    - Hủy Quyết định số 2727/QĐ-ƯBND ngày 24/8/2017 của ƯBND huyện s về thu hồi đất để xây dựng công trình Khu dân cư xã 77  
     
    - Hủy Ouyết định so 4001/OĐ-UBND ngày 08/11/2017 của Chủ tịch ƯBND huyện S về giải quyết khiếu nại của ông M (lần đầu);
     
    - Hủy Quyết định số 1079/QĐ-UBND ngày 09/7/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Q về giải quyết khiếu nại của ông M (lần 02).
     
    Buộc cơ quan Nhci nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật
     
    Sau khi xét xử phúc thẩm, UBND huyện S, tỉnh Q có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.
     
    Ngày 07/9/2021, Chánh án TAND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 37/2021/KN-HC, nội dung do Bản án phúc thẩm có vi phạm trong việc xác định diện tích 630,6m2 đất còn lại của ông M là đất thồ cư và xác định UBND huyện Ss phải xem xét bồi thường diện tích đất bị thu hồi là loại đất ở; từ đó đề nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử GĐT hủy Bản án hành chính phúc thẩm; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm.
     
    Tại Quyết định giám đốc thẩm số 46/2021/HC-GĐT ngày 18/11/2021 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 37/2021/KN-HC ngày 07/9/2021 của Chánh án TAND tối cao; hủy Bản án hành chính phúc thẩm; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm.
     
    III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
     
    Quá trình sử dụng đất của ông M căn cứ các tài liệu về quản lý đất đai qua các thời kỳ, cụ thể là sổ đăng ký ruộng đất năm 1986, sổ mục kê ruộng đất năm 1986 và sổ mục kê đất năm 1999 là không thống nhất về diện tích đất và mục đích sử dụng đất. Đến ngày 13/12/2002, UBND huyện S đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ bà H (mẹ ông M) diện tích đất 1.325m2, trong đó có 200m2 đất T (thổ cư) và 1.125m2 đất vườn tại thửa đất số 674, tờ bản đồ số 12. Sau khi được cấp GCNQSDĐ, gia đình ông M không có thắc mắc hay khiếu nại gì. Trước khi bà H chết, bà đã chuyển nhượng 200m2 đất T (thổ cư) và 933,4m2 đất vườn cho 06 hộ dân khác.
     
    Như vậy, có căn cứ xác định phần đất ở với hạn mức 200m2 trên GCNQSDĐ đã cấp cho hộ bà H (mẹ ông M) đã được chuyển nhượng cho người khác. Tổng diện tích trên GCNQSDĐ cấp năm 2002 còn lại là 191,6m2. Tuy nhiên, qua đo đạc lại diện tích đất ông M sử dụng thực tế tại Bản đồ địa chính lập năm 2016 có diện tích 518m2 và Quyết định số 2727 ngày 24/8/2017 của ƯBND huyện S xác định diện tích thu hồi là 630,6m2 đất HNK (đất hàng năm khác) và UBND huyện đã bồi thường, hỗ trợ cho ông M tổng số tiền 75.672.000 đồng đối với diện tích đất bị thu hồi nêu trên là có lợi cho ông M. Bên cạnh đó, tài liệu, chứng cứ thể hiện từ năm 2005, ông M đã chuyển sang tỉnh khác sinh sống, không trực tiếp sử dụng diện tích đất này vào mục đích đất ở mà giao cho người thân quản lý, sử dụng vào mục đích canh tác trồng hoa màu.  
     
    Việc ƯBND các cấp ban hành các Quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi thường, hồ trợ và giải quyết khiếu nại là đúng quy định của pháp luật.
     
    Tòa án cấp sơ thấm xét xử quyết định bác yêu cầu khởi kiện về việc xác định diện tích đất thu hồi là đất ở và bồi thường về đất ở của ông M là có căn cứ, đúng pháp luật.
     
    Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử xác định diện tích đất còn lại của ông M là đất ở đề từ đó xác định diện tích đất bị thu hồi là loại đất ở theo quy định tại Điều 74, Điều 79 Luật Đất đai năm 2013; Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và điểm b khoản 5 Điều 24 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ là không đúng quy định của pháp luật, không đúng với những tài liệu, chứng cứ của vụ án. Nên đã bị Hội dồng Thẩm phán TAND tối cao hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
     
    Trong vụ án này, Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thầm, giao hồ sơ cho cấp sơ thấm để xét xử lại là không đúng.

     

     
    788 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn ChuTuocLS vì bài viết hữu ích
    admin (22/04/2022)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận