Xin chào luật sư,
Hôm qua tôi nhận được bản án có một số nội dung tôi bị sử ép và không đúng căn cứ pháp luật xin được sự tư vấn của luật sư về các vấn đề sau:
- Mặc trong bản lời khai và khi tranh tụng tôi có yêu cầu bên bán phải tiếp tục thực hiện hợp đồng mà cũng không được chấp nhận.
- Tôi không đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc nhưng bản án lại ghi các bên thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc với lý do trong văn bản thay đổi nội dung biên bản hòa giải thành tôi không yêu cầu, mặc dù khi tranh tụng tôi cũng không đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc.
- Tôi xin gửi luật sư nguyên văn bản án của tòa mong luật sư tư vấn giúp tôi (nội dung hơi dài mong luật sư xem xét giúp tôi).
……
NHÂN DANH NƯỢC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
…..
“Lược bỏ phần thủ tục”
….
NHẬN THẤY
+ Theo đơn khởi kiện ngày 08/02/2012, Bà Trần Thị A trình bày:
Vào ngày 10/9/2010, Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B tiến hành ký kết hợp đồng đặt cọc với ông Nguyễn Đức C. Bên nhận cọc là Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B, bên đặt cọc là ông Nguyễn Đức C. Số tiền đặt cọc 50 triệu đồng để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 504m2 nằm trong tổng diện tích đất 2.147 m2 thuộc thửa 30, tờ bản đồ số 10, tại ….., theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Nguyễn Thị D. Tồng giá trị chuyển nhượng là 275 triệu đồng. Sau khi trừ số tiền đặt cọc còn lại số tiền chuyển nhượng 225 triệu sẽ thanh toán thành 02 đợt.
Đợt 1: 180 triệu đồng vào ngày 09/4/2012.
Đợt 2: 45 triệu đồng khi bên ông Nguyễn Đức C nhận giấy chứng nhận QSDĐ.
Theo giao kết hợp đồng đến ngày 09/4/2011, ông Nguyễn Đức C sẽ giao cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B số tiền chuyển nhượng đợt 1 là 180 triệu đồng. Nhưng đến nay quá thời hạn giao tiền nhương ông Nguyễn Đức C không thực hiện nên Bà Trần Thị A khởi kiện yêu cầu tòa án gải quyết :
- Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010 giữa Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B và ông Nguyễn Đức C.
- Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B không trả lại có ông Nguyễn Đức C số tiền cọc.
+ Tại bản tự khai ngày 14/5/2012, bị đơn là ông Nguyễn Đức C trình bày:
Vào ngày 10/9/2010, ông Nguyễn Đức C có đặt cọc 50 triệu đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B với diện tích 540m2. Theo thỏa thuận đến ngày 09/4/2011, Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B phải ra công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho ông Nguyễn Đức C nhưng Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B đã không thực hiện. Đồng thời Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B đã cắt ½ phần đất mà ông Nguyễn Đức C đặt cọc chuyển nhượng cho người khác và đã rào lưới B40 trên đó.
Ông Nguyễn Đức C không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị A yêu cầu Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngyà 10/9/2010.
+ Người có quyền lợi liên quan ông Võ Văn B trình bày: Thống nhất toàn bộ lời trình bày của Bà Trần Thị A. Ông Võ Văn B xác nhận ông và bà Bà Trần Thị A có nhận của ông Dũng 50 triệu đồng tiền đặt cọc để đảm bảo việc chuyển nhượng 540m2 đất trong tổng diện tích 2.147m2, do bà Nguyễn Thị D đứng tên. Theo thỏa thuận trong hợp đồng ngày 09/4/2011 (thanh toán nếu công chứng được hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ), ông Nguyễn Đức C sẽ thanh toán cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B số tiền 180 triệu nhưng đến nay vẫn không thực hiện. Ông Võ Văn B đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010 và không trả tiền cọc cho ông Nguyễn Đức C.
Ngày 09/5/2012, tòa án tiến hành hòa giải các bên đã thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010.
Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Nguyễn Đức C số đặt tiền cọc ngày 10/9/2010.
Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Nguyễn Đức C số tiền đặt cọc 50 triệu đồng.
Thời gian thanh toán sau khi có sự công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ngày 14/5/2012, ông Nguyễn Đức C có đơn xin thay đổi ý kiến. Ồng Nguyễn Đức C yêu cầu Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B phải thanh toán ngay số tiền trên.
Tại phiên tòa: các đương sự đều thống nhất Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B đã nhận 50 triệu đồng tiền cọc của ông Nguyễn Đức C. Tại thời điểm 10/9/2010, phần tiền các bên thanh toán cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong. Tuy nhiên phần đất trên do bà Nguyễn Thị D ứng tên nên không thực hiện được việc công chưng nên ông Nguyễn Đức C không giao tiếp tiền cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B nên phát sinh tranh chấp. Cách bên thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010.
Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B không đồng ý trả 50 triệu tiền cọc.
Ông Nguyễn Đức C yêu cầu Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B hoàn trả ngay số tiền 50 triệu đồng.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử, nhận đinh:
Các đương sự đều thống nhất Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B đã nhận 50 triệu đồng tiền cọc của ông Nguyễn Đức C. Tại thời điểm 10/9/2010, phần đất các bên thỏa thuận đặt cọc để đảm bảo việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ do bà Nguyễn Thị D đứng tên. Các bên thỏa thuận ngày 09/4/2011, ông Nguyễn Đức C thanh toán cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B 180 triệu khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong. Tuy nhiên phần đất do bà Nguyễn Thị D đứng tên nên không thực được việc công chứng nên ông Nguyễn Đức C không giao tiếp tiền cho Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B nên phát sinh tranh chấp, đây là tình tiết không phải chứng minh theo điều 80 bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa các bên đã thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010, xét thấy đây là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các đương sự, phù hợp với quy định pháp luật nên ghi nhận.
Xét yêu cầu của Bà Trần Thị A về việc việc Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B không trả lại cho ông Nguyễn Đức C số tiền đặt cọc 50 triệu đồng vì bà cho rằng ông Nguyễn Đức C là người có lỗi nên không đồng ý trả lại cọc. Ông Nguyễn Đức C cho rằng do hợp đồng không công chứng được nên ông không giao tiếp số tiền như đã thỏa thuận, ông không có lỗi, thấy rằng: Phần đất mà các bên thỏa thuận đặt cọc để đảm bảo giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 540 m2, năm trong tổng diện tích 2.147m2 thuộc thửa 30, tờ bản đồ số 10 tại ….., theo giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ bà Nguyễn Thị D, các bên đều biết biệc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất do người khác đứng tên là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện hợp đồng đặt cọc. Mặt khác chính vì đất do người khác đứng tên nên hợp đồng chuyển nhượng không công chứng được. Vì hợp đồng chuyển nhượng vi phạm điều cấm của pháp luật nên vô hiệu dẫn đến hợp đồng đặt cọc ngày 10/9/2010 cũng bị vô hiệu về mặt nội dung theo điều 128 bộ luật dân sự. Theo điều 137 bộ luật tố tụng dân sự về hậu quả giao dịch dân sự bị vô hiệu các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B đã nhận 50 triệu đồng tiền đặt cọc của ông Nguyễn Đức C thì phải có trách nhiệm giao trả lại. Do vậy yêu cầu của Bà Trần Thị A về việc vợ chồng bà không trả lại cho ông Nguyễn Đức C số tiền đặt cọc là không có căn cứ chấp nhận.
Trong vụ việc này các bên đều có lỗi ngang nhau nhưng các bên không ai yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
Ông Nguyễn Đức C yêu cầu Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B phải thanh toán ngay số tiền trên. Yêu cầu của ông Nguyễn Đức C là phù hợp với quy định của pháp luật nên có cơ sở chấp nhận.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUẾT ĐINH
- Áp dụng điều 358 bộ luật dân sự; Điều 128 và Điều 137 Bộ luật tố tụng dân sự; pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị A về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
Ghi nhận sự thỏa thuận của Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B và ông Nguyễn Đức C việc việc hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/9/2010.
Buộc Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Nguyễn Đức C số tiền 50 triệu đồng.
Kể từ ngày ông Nguyễn Đức C có đơn yêu cầu thi hành án nếu Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B không thanh toán số tiền trên thì hàng tháng Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B còn phải trả cho ông Nguyễn Đức C số tiền lãi trả theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành an.
2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị A và ông Võ Văn B phải triệu 2,5 triệu được trừ vào số tiền tậm ứng án phí đã nộp.
3/ Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành an, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. Hội đồng xét sử sơ thẩm
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa
Mong luật sư tư vấn giúp tôi sớm, chúc luật sư cuối tuần vui vẻ!