Cảm ơn luật sư đã tư vấn.
Em có viết tờ đơn kháng cáo như sao, xin quý luât sư tư vấn giúp.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------
....., ngày 24 tháng 05 năm 2012
ĐƠN KHÁNG CÁO
Kính gửi: - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TN
- TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TB
Người kháng cáo: PTP. Sinh năm 1957, CMND: .....
Địa chỉ: .................
Là: bị đơn trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông PTD và ông PTP
Kháng cáo: toàn bộ bản án xét xử sơ thẩm số ......................, ngày 14/05/2012 tại toà án nhân dân huyện TB.
Lý do của việc kháng cáo:
Chúng tôi cho rằng quyết định của toà sơ thẩm là chưa khách quan, không đúng qui định pháp luật, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của gia đình tôi vì các lý do sau:
- Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng toà hoàn toàn không căn cứ vào thực tế sử dụng đất cũng như nguồn gốc đất, cụ thể nguồn gốc đất này là của cha mẹ tôi và đã cho tôi đã sử dụng từ năm 1983 đến nay. Việc tôi sử dụng đất này được các anh em trong gia đình làm chứng, có tờ trình nguồn gốc đất được UBND xã AH xác nhận. Trong quá trình sử dụng đất tôi đã làm tròn nghĩa vụ với nhà nước. Vậy mà toà lại cho rằng những chứng cứ trên là không có căn cứ và toà đã căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp không đúng qui định để xác định quyền sử dụng đất hợp pháp cho ông D.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện cấp cho ông PTD là hoàn toàn sai về trình tự cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thể hiện ở chỗ UBND xã AH đã không thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất cũng như tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất. Cụ thể từ trước đến nay ông PTD hoàn toàn không sử dụng thửa đất đang tranh chấp nhưng lại được UBND xã AH xác nhận là sử dụng vào hồ sơ xin cấp CNQSDĐ.
- Không những sai về trình tự mà việc cấp giấy chứng nhận này cũng hoàn toàn sai qui định của Luật đất đai 2003 (LĐĐ 2003). Cụ thể khi nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông D hoàn toàn không sử dụng thửa đất này cũng như không có bất kỳ một loại giấy tờ nào qui định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 LĐĐ 2003.
- Tờ di chúc mà ông D đưa ra để làm căn cứ cho việc xin cấp giấy CNQSDĐ là hoàn toàn không hợp lệ vì các lẽ sau:
· Đây là tờ di chúc của cha tôi lập trên phần tài sản chung của cả cha và mẹ tôi, nhưng vào thời điểm đó mẹ tôi còn sống nên di chúc chỉ có hiệu lực một phần. Hơn nữa vào năm 2000, mẹ tôi và các anh em trong gia đình có làm tờ tương phân phân chia lại tài sản.
· Mặt khác, theo Điều 36 pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì ông D không có quyền yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình vì thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết. Cụ thể cha tôi mất tháng 02 năm 1990, theo pháp lệnh này thì ngày bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là ngày 10/09/1990, nghĩa là sau ngày 10/09/2000 ông D không còn quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ thừa kế của người khác. Nghĩa là ông D không thể sử dụng tờ di chúc này để làm căn cứ xác nhận quyền thừa kế của mình vì trong lúc này tôi đang sử dụng thửa đất hợp pháp. Ngày ông D làm hồ sơ xin cấp giấy CNQSDĐ là năm 2001 lúc này ông D đã hết thời hiệu khởi kiện đòi quyền thừa kế. UBND xã AH không xác minh tính hợp lệ của di chúc mà đã xác nhận hồ sơ xin cấp CNQSDĐ của ông D là hợp lệ dẫn đến việc ông D được cấp giấy CN sai với qui định.
- Toà bác bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của tôi đối với thửa đất với lý trong thời gian dài tôi không khởi kiện là hoàn toàn sai và không có căn cứ pháp luật vì các lẽ sau:
· Theo qui định tại Điều 135 Luật đất đai 2003 có qui định về việc hoà giải tranh chấp đất đai, cụ thể "nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải cơ sở". Trong khoản thời gian dài từ lúc giấy CNQSDĐ được cấp cho ông D, do nghĩ tình anh em nên tôi đã nhờ các thành viên trong gia đình tổ chức hoà giải (các thành viên trong gia đình có thể làm chứng về việc này), sau đó cũng đã được hoà giải tại UBND xã AH vào ngày 22/09/2009, trong lần hoà giải này mẹ tôi có ý kiến trước hội đồng hoà giải xã AH là giao quyền sử dụng phần đất trên cho tôi. Nhưng mọi cuộc hoà giải đều không thành. Đến ngày 24/03/2011, tôi có làm đơn khởi kiện ra toà án nhân dân huyện TB, nhưng toà án căn cứ vào điểm đ khoản 1 điều 168 của Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn khởi kiện của tôi.
· Theo qui định tại Điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự (có sửa đổi bổ sung năm 2012) về thời hiệu khởi kiện thì tranh chấp về quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, nghĩa là tôi có quyền khởi kiện vào bất cứ thời điểm nào.
- Theo nghị quyết 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số qui định của Pháp lệnh thừa kế có nêu rõ: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi công dân chết. Các tranh chấp về di sản khi có liên quan đến quyền sử dụng đất được giải quyết theo qui định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành của luật đất đai." Nhưng rõ ràng ở đây toà án sơ thẩm đã hoàn toàn không căn cứ vào luật đất đai để giải quyết tranh chấp đất là hoàn toàn sai.
- Theo các phân tính bên trên thì việc cấp giấy CNQSDĐ cho ông D là hoàn toàn sai, và ông D cũng không có quyền khởi kiện đòi quyền sử dụng đất thửa đất này, vậy theo khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003 thì tôi hoàn toàn có đủ điều kiện để được cấp giấy CNQSDĐ thửa đất này.
Vì những lý do trên, tôi kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm xét xử ngày 14/05/2012 của Toà án nhân dân huyện TB.
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết những việc sau đây: xét xử lại toàn bộ vụ án theo trình tự phúc thẩm theo hướng: huỷ giấy CNQSDĐ đã cấp cho ông D, công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của gia đình tôi, để tôi có căn cứ làm đơn xin cấp giấy CNQSDĐ.
Trên đây là nội dung và những yêu cầu kháng cáo, kính mong quí cơ quan xem xét.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người kháng cáo
PTP