Mời các bạn tham khảo bài viết này:
Hành chính
Chủ nghĩa hợp hiến và sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam
Chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với hiến pháp.
Chủ nghĩa hợp hiến là sự phù hợp một cách thực tế và hiệu quả trong hành
vi của chính quyền đối với những giới hạn pháp lý, những giới hạn có
thể tồn tại dưới dạng thành văn hoặc bất thành văn phản ánh những giá
trị chung được cộng đồng thừa nhận. Sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam cần dựa
trên tư duy “kiểm soát quyền lực” như một “chủ thuyết hiến pháp”, một
điều phù hợp với tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến.
Trên cơ sở đó, sửa đổi hiến pháp cần tập trung vào xây dựng những giới
hạn cấu trúc đối với quyền lực. Việc triệu tập Hội nghị Hiến pháp và
trưng cầu dân ý về hiến pháp sẽ có ý nghĩa kiểm soát quyền lực bởi ý
nghĩa giáo dục hiến pháp và làm minh bạch hiến pháp.
1. Vấn đề chuyển ngữ
Đành rằng lời chỉ là để diễn đạt ý, nhưng như một vị
hiền triết phương Đông đã nói, danh không chính thì lời nói không thuận, rồi sự
việc theo đó mà cũng không được thành tựu, xã hội không biết hành xử như thế
nào. Do vậy, một vài dòng để giải thích vấn đề chuyển ngữ là cần thiết. Danh từ
“constitutionalism” thường được dịch sang tiếng Việt là “chủ nghĩa hợp hiến”
hay “chủ nghĩa lập hiến”. Chuyển ngữ không chính xác sẽ gây những ấn tượng sai
lầm về những ý nghĩa khái niệm bao hàm; do vậy, cần phải Việt hóa danh từ
“constitutionalism” theo một cách thức phản ánh đúng bản chất của nó.
Chúng tôi ủng hộ việc chuyển ngữ danh từ
“constitutionalism” thành “chủ nghĩa hợp hiến” thay vì “chủ nghĩa lập hiến”.
Những dịch giả cuốn Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ1
cũng như những dịch giả của tập tài liệu “Chủ nghĩa hợp hiến và các nền dân
chủ đang nổi lên”2 đã nắm bắt đúng tinh thần của danh từ
“constitutionalism” khi Việt ngữ hóa thành “chủ nghĩa hợp hiến”. Như những phân
tích dưới đây sẽ chỉ ra, chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với hiến pháp hay
việc “lập” một bản hiến pháp, mà nó hàm nghĩa rằng, chính quyền phải hành động
phù hợp với những giới hạn được xác định từ trước. Một quốc gia có thể có hiến
pháp nhưng vẫn không có chủ nghĩa hợp hiến; ngược lại, có quốc gia có chủ nghĩa
hợp hiến nhưng không có hiến pháp. Chính vì vậy, việc chuyển ngữ “constitutionalism”
thành “chủ nghĩa lập hiến” sẽ gây một ấn tượng sai lầm rằng chủ nghĩa hợp hiến
đồng nghĩa với việc “lập” một bản hiến pháp. Nguy hiểm hơn, một khi chủ nghĩa
hợp hiến được đồng nghĩa với việc tồn tại một bản hiến pháp, người ta sẽ không
quan tâm đến việc xây dựng một hiến pháp phản ánh thực sự tinh thần của chủ
nghĩa hợp hiến.
2. Phân biệt chủ nghĩa hợp hiến với hiến pháp
Cũng như đối với các khái niệm dân chủ, quyền con người,
không có một định nghĩa được sử dụng thống nhất về khái niệm “chủ nghĩa hợp
hiến”. Louis Henkin viết rằng “chủ nghĩa hợp hiến không được định nghĩa ở
đâu cả”3. Tuy nhiên, các nghiên cứu về chủ nghĩa hợp hiến thường bắt
đầu với quan niệm có tính ảnh hưởng rộng rãi của Charles Howard McIlwain (1871-1968),
một nhà hiến pháp học danh tiếng của nước Mỹ, thuộc Đại học Harvard. Văn thức
này của McIlwain được trích dẫn rộng rãi trong các nghiên cứu liên quan: “Chủ
nghĩa hợp hiến có một thuộc tính bản chất: nó là những giới hạn pháp lý đối với
chính quyền; nó là phản đề của lối cai trị tùy tiện; nó ngược lại với chính
quyền chuyên chế, chính quyền của ý muốn thay vì chính quyền của luật pháp”4.
Dù rằng chủ nghĩa hợp hiến trải qua một quá trình phát triển lâu dài và phức
tạp từ thời cổ đại đến thời hiện đại với những biểu hiện khác nhau, McIlwain khái
quát rằng: “yếu tố ổn định nhất của chủ nghĩa hợp hiến thực sự vẫn giữ lại
những gì được hình thành từ lúc đầu: sự giới hạn chính quyền bằng luật pháp”5.
Có hai yếu tố trong định nghĩa của McIlwain về chủ nghĩa
hợp hiến: thứ nhất, sự giới hạn đối với chính quyền; thứ hai,
sự giới hạn đó được thực hiện bằng luật pháp. Scott Gordon, một học giả về lịch
sử hiến pháp, phê bình rằng: “khi nhấn mạnh đến sự giới hạn đối với quyền lực
nhà nước, McIlwain đã đi đúng hướng; nhưng khi nhấn mạnh đến những giới hạn pháp
lý, ông ta gần như tự phá vỡ tính thống nhất trong quan niệm của mình. Nếu
có một cơ quan trong một nhà nước làm ra tất cả các luật, thì giới hạn pháp lý
duy nhất mà nó vận hành theo chính là những luật do nó làm ra; nếu vậy thì
không có giới hạn nào hết”6. Thực ra, Scott Gordon hiểu lầm quan
niệm của McIlwain. Trong một nghiên cứu khác về chủ nghĩa hợp hiến và thế giới đang
chuyển đổi, McIlwain làm rõ hơn quan niệm của mình về tính pháp lý của những
giới hạn. McIlwain cho rằng luật pháp giới hạn quyền lực của chính quyền “có
thể là bất thành văn hoặc hoàn toàn là tập quán, như trong phần lớn lịch sử
phát triển của nó hoặc có thể được thiết lập trong một văn bản đơn hành như
nước ta hoặc các hiến pháp liên bang, nhưng thực chất của vấn đề là nó là luật
pháp ràng buộc ý chí tùy tiện”7.
Carl J. Friedrich (1919-1975), một nhà hiến pháp học và
chính trị học cũng thuộc Đại học Harvard, cũng quan niệm gần tương tự như
McIlwain. Định nghĩa chủ nghĩa hợp hiến như “một hệ thống những giới hạn hiệu
quả đối với hành động của chính quyền”8, Friedrich cho rằng tính
hiệu quả của sự giới hạn không phụ thuộc vào tính hình thức về mặt pháp lý: “sự
tồn tại của những giới hạn pháp lý hình thức không phải là một biểu hiện của
một trật tự hợp hiến theo nghĩa chính trị”9. Hơn thế, “những giới
hạn có thể hiệu quả và hoàn toàn tuân thủ theo quy tắc, mà không cần sự tồn tại
của luật tích cực, trừ khi luật được hiểu theo một nghĩa rất rộng bao gồm tất
cả các tập quán”10. Như vậy, điều được cả McIlwain và Friedrich
thống nhất là luật giới hạn hành vi của chính quyền trong một chế độ hợp hiến
không được hiểu theo trường phái luật tích cực, một trường phái cho rằng luật
chỉ là những gì do con người chủ động đặt ra.
Thực tế vận hành của
chủ nghĩa hợp hiến cho thấy, những phương tiện pháp lý giới hạn chính quyền
không hoàn toàn là luật tích cực. Do giới hạn của khuôn khổ bài viết, chúng tôi
chỉ lấy trường hợp của Anh và Mỹ làm điển hình.
Ai cũng công nhận rằng nước Anh thực hiện chủ nghĩa hợp
hiến, mặc dù nước này không có một hiến pháp thành văn, một loại hình của luật
tích cực. Cần lưu ý rằng, luật hiến pháp nước Anh vận hành như những giới hạn
đối với quyền lực chính trị bao gồm không chỉ những quy tắc pháp lý theo nghĩa
hẹp nhất. “Luật hiến pháp” ở nước Anh trong định nghĩa nổi tiếng của Dicey “bao
gồm tất cả các quy tắc ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phân
công và thực thi chủ quyền trong một nhà nước”11. Những quy tắc này
bao gồm cả những quy tắc pháp lý hiểu theo nghĩa hẹp và các quy tắc tập quán12.
Những quy tắc tập quán bao gồm những tập quán, những nhận thức, những phong
tục, những thói quen quy định cách cư xử của các thành viên nắm giữ quyền lực.
Những tập quán hiến pháp này giữ một vai trò quan trọng trong việc điều hành hệ
thống chính quyền nước Anh. Vernon Bogdanor cho rằng “ở nước Anh, thuật ngữ
“bất hợp hiến” không chỉ có nghĩa là trái với pháp luật; nó còn có nghĩa là
trái với tập quán, trái với những nhận thức về những điều chính đáng cần phải
làm”13. Như vậy, tập quán hiến pháp, mặc dù không phải là luật theo
nghĩa tích cực nhưng có hiệu lực về mặt hiến pháp trong việc kiểm soát công
quyền, và là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa hợp hiến Anh.
Ở nước Mỹ, nguồn của chủ nghĩa hợp hiến không chỉ có bản
hiến pháp đơn hành. Hơn một trăm năm trước đây, Christopher Tiedeman
(1857-1903), một nhà hiến pháp học danh tiếng đã công bố một nghiên cứu quan
trọng về “hiến pháp bất thành văn ở Mỹ”14. Chủ đề này cũng gây nên
sự quan tâm của một số học giả khác. Theo đó, người ta cho rằng những giới hạn
quyền lực của chính quyền Mỹ không chỉ gói gọn trong bảy điều được phê chuẩn ở
Philadelphia năm 1787 và 27 tu chính án chính thức về sau mà còn là những nhận
thức về tự do và bình đẳng được Tòa án tối cao liên bang đưa ra trong quá trình
hành xử quyền bảo hiến. Những nhận thức này, đến lượt nó, được định hình bởi
“bối cảnh xã hội bất thành văn”15 hơn là bản hiến pháp thành văn.
Thomas C.Grey khẳng định rằng “những nguyên tắc bất thành văn của luật cao hơn”
có “vị thế hiến pháp”16.
Như vậy, chủ nghĩa hợp hiến ở cả Anh và Mỹ đều giống
nhau ở chỗ những giới hạn đối với quyền lực của chính quyền không chỉ có luật
tích cực mà còn cả luật theo nghĩa tự nhiên, công lý, lẽ phải được biểu hiện
dưới dạng những nhận thức được thừa nhận chung, các phong tục, tập quán, thói
quen hiến pháp.
Đến đây có thể kết luận rằng, bản chất của chủ nghĩa hợp
hiến nằm ở sự phù hợp một cách thực tế và hiệu quả trong hành vi của chính
quyền đối với những giới hạn được xác định. Hình thức của những giới hạn đó
không quyết định bản chất của chủ nghĩa hợp hiến: những giới hạn đó có thể có hình
thức chính thức là các luật được ban hành theo một quy trình chủ động do con
người đặt ra, hoặc có thể là những quy tắc bất thành văn, những truyền thống,
những nhận thức được thừa nhận chung của một cộng đồng về công lý, lẽ phải.
Khi hiểu như vậy, chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa
với việc có một bản hiến pháp. Theo tinh thần của chủ quyền hợp hiến, vấn đề
cốt lõi là quyền lực có được kiểm soát một cách hiệu quả và thực tế hay không,
chứ không phải có hiến pháp hay không. Trong một quốc gia không có một hiến pháp
thành văn, nhưng nếu chính quyền được giới hạn bởi các quy định bất thành văn
phản ánh các giá trị tự do, bình đẳng và công lý, chính quyền đó vẫn có thể
được coi là chính quyền hợp hiến. Chính trên cơ sở này, các nghiên cứu về chủ
nghĩa hợp hiến cổ đại và trung đại đã được phát triển17.
Ngược lại, sự tồn tại về mặt hình thức của một bản hiến
pháp thành văn không bảo đảm chắc chắn rằng chính quyền sẽ được giới hạn hiệu
quả và thực tế. Craham Walker, một học giả về tư tưởng hiến pháp, cho rằng:
“mọi chính thể đều có hiến pháp, thành văn hoặc bất thành văn… Nhưng rõ ràng là
không phải mọi chính thể đều thực thi chủ nghĩa hợp hiến. Chủ nghĩa hợp hiến
cần một loại hiến pháp nhất định”18. Các hiến pháp thành văn chắp
cánh cho quyền lực rõ ràng không phải là một loại hiến pháp mà chủ nghĩa hợp
hiến đòi hỏi.
Việc cho rằng chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với
hiến pháp không có nghĩa coi thường tầm quan trọng của hiến pháp thành văn
trong một trật tự hợp hiến. Thực tế cho thấy, các quốc gia trong những nỗ lực
xây dựng chế độ hợp hiến đều quan tâm đến việc ban hành hiến pháp thành văn.
Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa hợp hiến là những giới hạn thực tế và hiệu quả đối với
quyền lực, một bản hiến pháp thành văn có ý nghĩa giới hạn hay nói theo cách
của Craham Walker là một hiến pháp có tính chất “tự giới hạn”19 là
cần thiết đối với chính quyền hợp hiến.
Cũng lại cần phải lưu ý thêm, quan niệm rằng một hiến pháp
cần thiết đối với chủ nghĩa hợp hiến là một hiến pháp có giá trị giới hạn đối
với quyền lực không có nghĩa coi hiến pháp thành văn chỉ có một chức năng duy
nhất là đặt ra những giới hạn pháp lý đối với chính quyền. Các hiến pháp hiện
đại đã tiến xa quan niệm cổ điển về chức năng của hiến pháp. Ngoài chức năng
giới hạn quyền lực, các hiến pháp hiện đại còn là phương tiện để tuyên bố những
mục tiêu chung của cộng đồng hoặc những giá trị mà cộng đồng cam kết. Cụ thể
hơn, các hiến pháp hậu thuộc địa còn là phương tiện để tuyên bố sự độc lập. Cần
thấy rằng, chủ nghĩa hợp hiến là một giá trị chứ không phải là tất cả giá trị
của một chính thể. Và khi giá trị hợp hiến chỉ là một phương diện, một loại giá
trị của một chính thể, việc xây dựng các giá trị hợp hiến chỉ là một phương
diện của hiến pháp thành văn, một văn bản có chức năng tuyên bố những phương
diện quan trọng của chính thể. Việc đồng nhất chủ nghĩa hợp hiến với hiến pháp không
cho phép nhận ra điều này.
3. Chủ nghĩa hợp hiến và sửa đổi hiến pháp ở Việt
Nam
Các giá trị của chủ nghĩa hợp hiến được du nhập vào Việt
Nam từ nửa đầu thế kỷ trước bởi các nhà nho yêu nước như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng cho đến các nhà trí thức yêu nước như Phan Anh, Vũ
Đình Hòe, các nhà cách mạng như Hồ Chí Minh. Bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
được ban hành năm 1946 được coi là một hiện thân của các giá trị hợp hiến. Các
giá trị hợp hiến, sau đó, mờ nhạt dần trong các Hiến pháp 1959 và Hiến pháp
1980 và bắt đầu dần dần tái sinh sau thời kỳ đổi mới. Bản Hiến pháp 1992, dù
rằng còn ảnh hưởng mạnh mẽ của các hiến pháp xã hội chủ nghĩa tiền thân, nhưng
đã bắt đầu cam kết với giá trị hợp hiến, khi đưa ra quy định về quyền con người
trong Điều 50. Cải cách hiến pháp hồi đầu thập kỷ này cho thấy một khuynh hướng
rõ ràng của việc tái sinh các giá trị hợp hiến ở Việt Nam khi các nhà soạn thảo
hiến pháp quyết định đưa vào hiến pháp chủ trương chính thức về “nhà nước pháp
quyền” và phân công quyền lực. Những bàn thảo sôi nổi từ phương diện chính trị cho
đến học thuật và dư luận về chế độ bảo hiến và tòa án hiến pháp trong một thập
kỷ qua cho thấy rõ hơn xu hướng của xã hội trở lại các giá trị hợp hiến20.
Xu hướng này trở nên mạnh mẽ hơn khi tính đến những quan
tâm gần đây đối với vấn đề kiểm soát quyền lực. Dự thảo Báo cáo chính trị trình
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần XI, liên quan đến việc “nâng cao nhận thức
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, giới thiệu một tư duy mới:
“Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, sự phối hợp và kiểm soát
(tác giả nhấn mạnh-BNS) các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”21. Chủ trương kiểm soát quyền lực là
một bước tiến đáng chú ý trong tư duy hiến pháp.
Tư duy về kiểm soát quyền lực tiệm cận với tư duy về chủ
nghĩa hợp hiến. Kiểm soát quyền lực không khác lắm với giới hạn quyền lực.
Chúng tôi cho rằng, “kiểm soát các cơ quan trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” có thể được coi là một “chủ thuyết hiến pháp”
cho việc sửa đổi hiến pháp sắp tới ở Việt Nam.
Lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001, dù rằng chúng ta đã chủ
trương “phân công quyền lực”, nhưng các quy định cụ th��� về Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án lại không cụ thể hóa “chủ thuyết” này: Quốc hội, ngoài quyền lập pháp,
vẫn có những quyền mang tính hành pháp và tư pháp; Chính phủ là cơ quan hành chính,
không phải là cơ quan hành pháp; Tòa án không được trang bị đầy đủ các quyền tư
pháp cần thiết như giải thích hiến pháp, luật và xem xét tính hợp hiến của các
văn bản pháp luật. Để tránh tình trạng tương tự tái diễn trong lần sửa đổi hiến
pháp tới đây, cần phải triển khai một cách thực tế và cụ thể chủ thuyết “kiểm
soát các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Không chỉ chủ trương kiểm soát quyền lực trên phương diện tư tưởng, mà
điều này cần phải được biến thành những hành động thực tế trong việc sửa đổi
hiến pháp.
Những phương tiện của chủ nghĩa hợp hiến hay kiểm soát
quyền lực bao gồm: 1) sự biểu đạt các giới hạn; 2) các giới hạn về cấu trúc; 3)
các giới hạn về quy phạm22. Sự biểu đạt các giới hạn là sự công bố
những giới hạn mà chính quyền cam kết sẽ tôn trọng. Các giới hạn về cấu trúc được
biết đến rộng rãi như: phân chia quyền lực, chủ nghĩa liên bang, chế độ lưỡng
viện, chế độ đàn hặc… Các giới hạn về quy phạm là những giá trị có tính chất
quy chuẩn mà chính quyền tôn trọng như các giá trị tự do, bình đẳng, công lý.
Xin bàn về các vấn đề này.
Những giới hạn quy phạm của một chính thể thực chất là
sự tự giới hạn của chính thể trong những mong muốn của mình. Khi tôn trọng các
giá trị chung, chính quyền không nên đi quá xa để cam kết với những giá trị lãng
mạn. Khi chủ nghĩa hợp hiến nhấn mạnh đến tính thực tế và hiệu quả, nó
là một thứ không song hành với chủ nghĩa lãng mạn. Bởi lẽ, khi cam kết với
những giá trị xa vời và không giới hạn, chính quyền sẽ làm thất vọng dân chúng
của mình khi không đạt được các giá trị đó.
Các giới hạn quy phạm là tiền đề cho các giới hạn về cấu
trúc. Ví dụ, việc tôn trọng tự do của con người dẫn đến những giới hạn về cấu
trúc để kiểm soát nguy cơ lạm quyền xâm phạm tự do. Nói cách khác, những giới
hạn về cấu trúc được thành lập để bảo đảm những giới hạn quy phạm. Trong khi Hiến
pháp Việt Nam cam kết một cách khá đầy đủ đối với các quy chuẩn chung của thế
giới về quyền con người thể hiện trong Chương V, điều cần bổ sung là xây dựng
các giới hạn về cấu trúc để bảo đảm tôn trọng các giới hạn quy phạm đó. Do vậy,
nếu sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam được tiến hành theo chủ thuyết “kiểm soát
quyền lực”, cần phải xây dựng những giới hạn về cấu trúc: thiết lập một chế độ
bảo hiến hiệu quả hơn, xây dựng cơ chế bất tín nhiệm thay cho cơ chế bỏ phiếu
tín nhiệm, thiết lập chế độ điều trần, xây dựng hệ thống Tòa án độc lập, phân
định thẩm quyền rạch ròi giữa trung ương và địa phương, đồng thời tôn trọng tự
quản của địa phương. Tóm lại, chúng tôi cho rằng, trọng tâm của những cải cách hiến
pháp sắp tới nên hướng vào việc xây dựng các giới hạn cấu trúc.
Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại thường dựa vào bản hiến pháp
thành văn như một phương tiện để biểu đạt những giới hạn. Nói cách khác, ban
hành một hiến pháp thành văn là một trong những con đường để chính thể tuyên bố
những giới hạn. Craham Walker và sau đó là Beau Breslin cho rằng, hành vi ban hành
hiến pháp được coi là một việc làm khởi đầu trong những nỗ lực giới hạn quyền
lực bởi hiệu lực khách quan hóa của hành vi này23. Hiệu lực
khách quan hóa được hiểu là một khi những giới hạn được tuyên bố, những giới
hạn đó trở nên khách quan đối với nhà cầm quyền và do vậy, nhà cầm quyền không
thể tùy ý hành động theo những mong muốn chủ quan của mình.
Tuy nhiên, cả Walker và Breslin đều bỏ qua một thực tế
là không phải hành vi ban hành hiến pháp nào cũng có những hiệu lực khách quan
hóa. Chẳng hạn, nếu hiến pháp được soạn thảo, phê chuẩn, ban hành theo một quy trình
thiếu minh bạch, nó khó có thể trở nên khách quan đối với nhà cầm quyền. Cụ thể
hơn, điều chưa được giải quyết trong nghiên cứu của Walker và Breslin là sự
tương quan giữa quy trình biểu đạt giới hạn (hay quy trình lập hiến) và hiệu
lực giới hạn mà quy trình đó mang lại.
Nếu tư duy “kiểm soát quyền lực” được xem là một chủ
thuyết sửa đổi hiến pháp trong thời gian tới ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng,
bản thân quy trình sửa đổi hiến pháp phải được xây dựng như một phương tiện để
kiểm soát quyền lực. Bằng cách nào để quy trình sửa đổi hiến pháp trở thành một
quy trình kiểm soát quyền lực?
Một hiến pháp chỉ trở nên khách quan đối với chính quyền
và có hiệu lực giới hạn khi nó được ban hành theo một quy trình công khai, minh
bạch. Khi những giới hạn trong tương lai đối với nhà cầm quyền được bàn thảo, phê
chuẩn một cách rộng rãi, nhà cầm quyền tự nhiên bị giới hạn theo hai nghĩa. Thứ
nhất, sự thảo luận rộng rãi của cộng đồng đối với những giới hạn đó sẽ là
một hình thức để làm rõ đối với nhà cầm quyền về những giới hạn mà họ sẽ tuân
thủ. Thứ hai, sự thảo luận rộng rãi của cộng đồng trong quy trình lập
hiến cũng là một dịp để giáo dục dân chúng về các giá trị hiến pháp, và chính
sự giáo dục này lại c�� hiệu lực giới hạn đối với nhà cầm quyền: khi dân chúng
nhận thức được các giá trị hiến pháp, nhà cầm quyền không thể tùy tiện hành
động.
Đến đây,
xin trở lại đề xuất trước đây của chúng tôi về triệu tập Hội nghị Hiến pháp để
thảo luận những nội dung hiến pháp sửa đổi và tổ chức trưng cầu dân ý để phê
chuẩn các điều khoản hiến pháp được sửa đổi. Có thể có ý kiến phản đối rằng,
Hội nghị Hiến pháp hay trưng cầu dân ý chỉ là những vấn đề thuộc về kỹ thuật,
thủ tục của quy trình lập hiến và không hẳn là khi có Hội nghị Hiến pháp hay
trưng cầu dân ý, hiến pháp sẽ tốt hơn. Đúng vậy, để viết ra một hiến pháp hay,
phản ánh đầy đủ những giá trị hiện đại theo một kỹ thuật soạn thảo tiên tiến
nhất, một Ủy ban các chuyên gia hiến pháp sẽ
thích hợp hơn là Hội nghị Hiến pháp hay trưng cầu dân ý. Tuy nhiên, một hiến
pháp được xây dựng theo cách này có thể sẽ không phản ánh những gì cộng đồng đang
mong muốn, và quan trọng hơn sẽ không có hiệu lực giới hạn. Khi đề nghị triệu
tập Hội nghị Hiến pháp và phê chuẩn toàn dân đối với hiến pháp sửa đổi, chúng
tôi muốn nói đến ý nghĩa minh bạch hóa hiến pháp và giáo dục hiến pháp, và do đó,
ý nghĩa của những việc làm này đối với việc xây dựng một chính quyền hợp hiến.
Hội nghị Hiến pháp và trưng cầu dân ý là những con đường quan trọng để làm minh
bạch các giá trị hợp hiến đối với nhà cầm quyền và để giáo dục hiến pháp, hay
chính xác hơn là giáo dục các giá trị hợp hiến đối với tất cả các thành viên
của cộng đồng. Khi các giá trị hợp hiến trở nên minh bạch đối với nhà cầm
quyền, và khi dân chúng nhận thức rõ về các giá trị hợp hiến, quyền lực bước đầu
sẽ được kiểm soát.
(1) Xem: Jay M. Shafritz, Từ điển về Chính quyền và Chính trị Hoa
Kỳ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà N���i, 2002 tr. 229.
(2) Xem “Chủ nghĩa hợp hiến
và các nền dân chủ đang nổi lên” (nguyên tác: “Constitutionalism and Emerging
Democracies”), Tư liệu dịch của Phòng Thông tin - văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ.
(3) Louis Henkin, “A New Birth of Constitutionalism” (1993) 14
Cardozo Law Review 534.
(4) Charles Howard McIlwain, Constitutionalism: Ancient and Modern
(Clark, New Jersey: The Lawbook Exchange, Ltd, 2005), p. 24.
(5) Charles Howard McIlwain, tlđd, tr. 24.
(6)Scott Gordon, Controlling the State: Constitutionalism from
Ancient Athens to Today (Cambridge, Massachusetts, and London, England: Harvard
University press, 1999), p. 5.
(7) C.H McIlwain, Constitutionalism and the Changing World
(Cambridge: Cambridge University Press, 1969), p. 244.
(8)Carl J. Friedrich, Constitutional Government and Democracy
(Boston, New York, Chicago, Atlanta, Dallas, Columbus San Francisco, Toronto,
and London: Ginn and Company, 1950), p. 26.
(9) Carl J. Friedrich, tlđd, tr. 123.
(10) Carl J. Friedrich, tlđd,
tr. 123.
(11) A.V.Dicey, Introduction to the Study of Law of the
Constitution (London: MacMillan and Co., Limited, 1920), p. 22
(12) A.V.Dicey, tlđd, tr. 23-24.
(13)Vernon Bogdanor, “Britain: The Political Constitution” trong
Vernon Bogdanor (ed), Constitution in Democratic Politics (England: Gover
Publishing Company Limited, 1988), p. 56.
(14)Christopher Tiedeman, the Unwritten Constitution of the United
States: a Philosophical Inquiry into the Fundamentals of American
Constitutional Law (New York: William S.Hein& Co., Inc, 1974).
(15) See Michael S. Moore, “Do We have an Unwritten Constitution?”
(1989) 63 Southern California Law Review 137.
(16) Thomas C.Grey, “Do We
have an Unwritten Constitution?” (February 1975) 27 Stanford Law Review 16.
(17) Charles Howard McIlwain, tlđd, tr. 24; Scott Gordon, tlđd, tr.
5.
(18)Craham Walker, “The Idea of Nonliberal Constitutionalism” trong
Ian Shapiro and Will Kymlicka (eds), Nomos XXXIX: Ethnicity and Group Rights
(New York and London: New York University Press, 1997), pp.164-165.
(19) Craham Walker, tlđd, tr.
164-165.
(20)Về diễn tiến của chủ nghĩa hợp hiến ở Việt Nam theo khuynh
hướng: du nhập, thịnh, thoái trào, tái sinh, chúng tôi đã phân tích trong: Bùi
Ngọc Sơn, Chủ nghĩa hợp hiến ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12
(259), 2009, tr. 12-24.
(21)Xem Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ( ngày 20/4/2010),
tr. 33
(22) Craham Walker, tlđd,
p.166-167.
(23)Craham Walker, tlđd, pp. 166-167; Beau Breslin, The
Communitarian Constitution (Baltimore and London: The John Hopkins University
Press, 2004), p. 124.
Bùi Ngọc Sơn - NCS Đại học Hồng Kông, giảng viên khoa Luật- Đại học
Quốc gia Hà Nội
(SUNLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Cập nhật bởi BachThanhDC ngày 05/01/2012 08:35:54 SA
Cắt bỏ nội dung quảng cáo Cập nhật bởi leminhtruongsunlaw ngày 04/01/2012 03:25:15 CH
Quý khách có nhu cầu tư vấn pháp luật, Hãy liên hệ trực tiếp với Chúng tôi:
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT MIỄN PHÍ (24h/7):19006816
Gửi câu hỏi trực tiếp qua Email: contact@sunlaw.com.vn
Tham khảo thông tin pháp lý website : http://www.sunlaw.com.vn
Copyright © SUNLAW FIRM