Với câu hỏi trên, chúng tôi giải đáp như sau:
Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Lợi ích phi vật chất…”
Theo đó:
- Chủ thể - người có chức vụ, quyền hạn.
- Lỗi: cố ý trực tiếp và động cơ: tư lợi.
- Hành vi khách quan: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự. Của hối lộ có thể là tiền, tài sản hoặc những lợi ích vật chất khác.
- Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sư.
- Hành vi nhận hối lộ cấu thành tội nhận hối lộ khi của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí kỉ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội được quy định từ Điều 278 đến Điều 284 mà còn vi phạm. Hậu quả nghiêm trọng là những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc lợi ích chính đáng của công dân.
Như vậy, nếu trong trường hợp của bạn, người vợ là người có chức vụ quyền hạn thì có thể bị truy cứu về tội nhận hối lộ theo quy định tại Khoản 1 Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 (nhận hối lộ 80 triệu đồng). Nếu người chồng chứng minh được việc không biết hoặc không thỏa thuận với vợ về việc nhận hối lộ thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (vì chuyển tiền vào tài khoản của người chồng). Nếu người chồng không chứng minh được thì có thể bị truy cứu về tội này với vai trò là đồng phạm. Trong trường hợp này, bạn cũng có thể bị truy cứu về tội đưa hối lộ được quy định tại Khoản 1 Điều 364 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Trong trường hợp người vợ không phải là người có chức có quyền thì người vợ có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;…”
Theo thông tin bạn cung cấp thì 33 triệu người vợ vẫn chưa trả cho bạn, do vậy, người đó có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Nếu người chồng biết về hành vi lừa đảo này (thỏa thuận với người vợ) thì người chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nhưng với vai trò là đồng phạm. Còn nếu người chồng không biết về hành vi này thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để giải quyết vấn đề của bạn thì bạn nên là đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an cấp huyện nơi người vợ cư trú, nếu không rõ nơi cư trú thì bạn gửi lên cơ quan công an nơi xảy ra hành vi phạm tội này.
* Thân gửi luật sư cám ơn luật sư đã tư vấn và trả lời, nhưng tôi có 1 vài điều muốn hỏi
- Đây là điều tôi muốn hỏi thêm luật sư
1/ Theo như luật sư giải thích trong trường hợp này người vợ không có chức vụ quyền hạn gì, chỉ là kế toán của một công ty ở khu công nghiệp Bắc Thăng long
2/ Theo như luật sư giải thích
- Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sư.
Như vậy tôi cũng là ngườitội à
3/ Tháng 10/2018 người vợ này hẹn trả tôi xong vẫn ko trả , xong lại hẹn sang đầu tháng 11/2018, cuối tháng 11/2018 họ vẫn chưa trả, tôi có giử tin nhắn qua điện toại để yêu cầu họ trả nốt tiền, họ gửi lại tin nhắn là hẹn vài ngày nữa , từ cuối tháng đến hôm nay là 5/12/2018 rồi họ vẫn chưa trả.
Như vậy theo luật sư :
- Nếu tôi làm đơn ra công an , khi xét sử tôi có bị phạm tội đưa hối lộ và bị xử lý như thế nào
- Còn trường hợp người nhận tiền của tôi xử lý như thế nào,
- Luật sư giải thích người chồng chứng minh được Người chồng không biết về hành vi này thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nhưng hiện nay tôi vẫn còn hóa đơn chuyển tiền qua tài khoản của người chồng
- ngày 20/8/2108 tôi đã về nói chuyện với chồng của cô ta , thì chồng cô ta bảo về nói chuyện với vợ sẽ thu xếp trả.
Mong luật sư giải thích, tư vấn giúp