Trường hợp của bạn tôi tư vấn như sau:
1. Bố bạn có một mảnh đất được nhà nước đã cấp GCNQSD đất (chỉ có 1 mình tên bố bạn và ông mất từ năm 2015) mảnh đất là của bố bạn phân cho 3 khẩu gồm bố bạn, anh trai bạn và bạn. Bố bạn cưới vợ mới năm 93 và năm 97 thì xây căn nhà đó thành 4 tầng. Việc phân chia dù sao cũng chỉ đúng một phần nào đó.
2. Căn cứ Khoản 1 Điều 33 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Theo đó, nguồn gốc Quyền sử dụng đất mà bố bạn, anh trai bạn và bạn có được là tài sản riêng. Khi ông mất thì tài sản này chưa chia và bà là người đứng tên quản lý và sử dụng. Tài sản chung của bố bạn, mẹ kế bạn là ngôi nhà bốn tầng. Khi đó, 1/3 mảnh đất sẽ được coi là di sản thừa kế do bố bạn để lại, còn ngôi nhà bốn tầng sẽ được chia thành1/2 là di sản của bố bạn và ½ là của mẹ kế. Vì bố bạn khi chết không để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật, những người người kế theo pháp luật được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS được quy định theo thứ tự sau đây: “ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”. Di sản của bố bạn để lại ở trên là đúng theo thông tin bạn cung cấp thì mới thực hiện chia 1/3 đất và 1/2 nhà là của bố bạn, đây là trường hợp bạn chứng minh được những thông tin ở trên là đúng. Còn nếu trong trường hợp thông tin không chính xác hoặc không chứng minh được thì sự việc chia di sản thừa kế như bạn đã nêu trong câu hỏi.
Do đây là thừa kế theo pháp luật nên việc chia thừa kế của những người còn lại trong gia đình bạn được thực hiện bằng việc họp mặt những người thừa kế và thỏa thuận về việc chia thừa kế theo quy định. Như vậy, ở đây những người thừa kế có thể thỏa thuận bằng văn bản ủy quyền để cho một người trong số những người thừa kế đứng ra phân chia di sản thừa kế . Văn bản này phải có chữ ký những người thừa kế. Và để cho văn bản có tính pháp lý, có tính ràng buộc cao thì nên được công chứng hoặc chứng thực.
3. Theo quy định tại Điều 3 và Điều 11 Luật Cư trú năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú năm 2013 thì công dân có quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ đăng ký (hộ khẩu) thường trú hoặc tạm trú tại một địa điểm nhất định để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc quản lý nhà nước về cư trú. Như vậy, trong luật này cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nào thể hiện công dân đăng ký hộ khẩu ở địa chỉ nào thì được sở hữu nhà đất ở địa chỉ đó. Việc công dân đăng ký hộ khẩu là nhằm mục đích xác định nơi cư trú của công dân chứ không phải là căn cứ xác định quyền sở hữu tài sản tại địa điểm đăng ký hộ khẩu của công dân. Do đó, Anh em bạn không có tên trong hộ khẩu của căn nhà đó thì có không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của mình trong quá trình bán nhà và phân chia thừa kế căn nhà đó.
Vụ việc của bạn còn rất nhiều tình tiết phức tạp, tôi chỉ tạm tư vấn như vậy. Trong trường hợp bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy gọi điện thoại cho tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658
Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;
Email: luatsuthanhtung@gmail.com;