Căn cứ khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, căn cứ khoản 2 Điều 212 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình
1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan….”.
Theo đó, căn cứ vào khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 và khoản 5 Điều 6 Thông tư 33/2017 của Bộ TN&MT thì tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền SDĐ; nhận chuyển quyền SDĐ mà những người trong hộ gia đình có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung trong hộ gia đình và có quyền SDĐ chung thì GCN được cấp cho hộ gia đình và những người đó được ghi tên trên GCN.
Theo thông tin bạn cung cấp thì 4 chị được Nhà nước cấp đất ruộng từ 1982 đến 1992, em gái bạn và bạn không được cấp đất ruộng. Như vậy, tại thời điểm được Nhà nước giao đất (1982-1992) chỉ có tên 4 chị gái bạn trong sổ hộ khẩu (căn cứ xác định người có quan hệ hôn nhân, huyết thông, nuôi dưỡng), nếu tất cả các thành viên này đều đang sống chung thì bố mẹ bạn và 4 chị của bạn có quyền sử dụng đất chung đối với mảnh đất, có quyền như nhau với mảnh đất. Do đó, khi đất nông nghiệp của gia đình bạn bị thu hồi thì các thành viên này đều có quyền được hưởng tiền bồi thường về đất như nhau trừ bạn và em gái bạn nước sẽ không được hưởng tiền đền bù khi bị thu hồi đất ruộng do thời điểm cấp đất không có tên bạn.
Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377
Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.