Xin chào bạn.
Theo như bạn đã trình bày, vợ bạn có một người con gái riêng 4 tuổi, bạn đã làm thủ tục nhận con và chuyển họ cho người con gái đó và vợ chồng bạn có một người con trai chung được 18 tháng tuổi, hiện nay vợ bạn muốn ly hôn và đã nộp đơn ra tòa.
Trường hợp của bạn thì cần giải quyết như sau:
- Con chung của vợ chồng bạn được 18 tháng tuổi: về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không có đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác. Đồng thời, sau khi ly hôn thì anh và gia đình nội đều có quyền được thăm nom con.
Căn cứ vào quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
- Người con gái riêng của vợ bạn: Mặc dù bạn đã làm thủ tục nhận con và sang tên họ của bạn nhưng trên thực tế thì đó vẫn là con riêng của vợ bạn, mà việc tranh chấp quyền nuôi con chỉ xảy ra giữa con chung của hai vợ chồng. Chính vì thế mà sau khi ly hôn anh sẽ không có quyền yêu cầu tranh chấp đối với người con riêng của vợ bạn.
- Về số vàng mà vợ bạn đã lấy đi:
Do thông tin của bạn cung cấp chưa đầy đủ nên có thể giải quyết theo các trường hợp sau:
+ Số vàng đó là tài sản chung của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn số vàng đó phải được chia đôi cho cả hai vợ chồng.
Để xác định tài sản sản chung của vợ chồng thì dựa vào Điều 33 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
+ Còn nếu số vàng đó thuộc tài sản riêng của vợ bạn hoặc của bạn thì khi ly hôn sẽ thuộc về tài sản riêng của người đó.
Để xác định tài sản riêng của vợ, chồng thì căn cứ vào Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Xin cảm ơn.