Điểm a, Khoản 1, Điều 22 và Khoản 1, Điều 23 Bộ luật Lao động quy định, hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Do đó, Hợp đồng bạn nêu ở trên là Hợp đồng lao động không xác định thời hạn
Pháp luật ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của Người sử dụng lao động (NSDLĐ) tại Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 sửa đổi bổ sung 2015, theo đó, người sử dụng lao động chỉ được đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với người lao động trong các trường hợp sau:
+ Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
+ Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
+ Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
+ Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động.
Đối chiếu với trường hợp trê, lý do để chấm dứt Hợp đồng laqo động phải thuộc một trong 4 căn cứ trên. Như vậy, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mới là hợp pháp.
Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng sẽ có cách giải quyết cho bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658
Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;
Email: luatsuthanhtung@gmail.com;