Quyết định số 31/2003/hđtp-ds ngày 04-11-2003 về vụ án đòi tài sản gắn liền quyền sử dụng đất

Chủ đề   RSS   
  • #264725 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định số 31/2003/hđtp-ds ngày 04-11-2003 về vụ án đòi tài sản gắn liền quyền sử dụng đất

    Số hiệu

    31/2003/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định số31/2003/hđtp-ds ngày 04-11-2003 về vụ án đòi tài sản gắn liền quyền sử dụng đất

    Ngày ban hành

    04/11/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ31/2003/HĐTP-DS NGÀY 04-11-2003
    VỀ VỤ ÁN ĐÒI TÀI SẢN
    GẮN LIỀN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    .....................

    Tại phiên toà ngày 04-11-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự về đòi tài sản gắn liền quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơnBà Huỳnh Thị Sang, sinh năm 1916, uỷ quyền cho ông Nguyễn Qưới Phước, sinh năm 1939; trú tại số nhà 249 đường Hoàng Văn Thụ phường 1, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bị đơn: Bà Lê Thị Hà, sinh năm 1936; trú tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1Bà Phạm Bạch Yến, sinh năm 1940; trú tại số 1202 Pecosway Sunny Wale-CA 34089, Hoa Kỳ (con gái bà Sang).

    2. Ông Phạm Kim Quang, sinh năm 1942; trú tại số 27 Ter rue Jean Ribault (76200) Dieppe, Pháp (con trai bà Sang).

    3. Bà Phạm Thị Như Mai, sinh năm 1947; trú tại số 9A Venue Eugene pittard/1206 Grene, Thuỵ Sỹ (con gái bà Sang).

    Bà Yến, ông Quang, bà Mai uỷ quyền cho bà Huỳnh Thị Sang.

    4. Ông Nguyễn Thế Tài, sinh năm 1946;

    5. Chị Huỳnh Thị Kim Cương, sinh năm 1959 (con bà Hà);

    6. Anh Huỳnh Hùng Dũng, (con bà Hà);

    7. Anh Huỳnh Kim Bình, sinh năm 1971 (con bà Hà);

    8. Anh Bùi Thú Nghị, sinh năm 1960;

    9. Anh Trần Ngọc Đức, sinh năm 1974;

    l0. Anh Nguyễn Tấn Hà, sinh năm 1972;

    1l. ông Nguyễn Văn Cho, sinh năm 1931 ;

    Đều trú tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai

    NHẬN THẤY:

    Lô đất A 17 có diện tích 16,87 mẫu tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai là của bà Huỳnh Thị Sang mua của ông Phan Minh Chiểu, ông Hoa Văn Mùi, ông Bùi Khắc Chiến và bà Võ Thị My ngày 02-10-1957.

    Sau khi mua đất, bà Huỳnh Thị Sang đã trồng cây cao su, cây cà phê, cây sầu riêng và cây chôm chôm. Năm 1975, bà Huỳnh Thị Sang đã hiến cho Nhà nước 10 mẫu đất đã trồng cây cao su (thực tế chỉ có 8 mẫu cây cao su còn 2 mẫu đất phía sau ông Toàn trồng dưa hấu - B117). Diện tích đất còn lại (6, 87 mẫu) do sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, không có điều kiện quản lý, chăm sóc nên bà Huỳnh Thị Sang đã giao cho vợ chồng ông Huỳnh Kim Toàn, bà Lê Thị Hà quản lý, chăm sóc thu hoa lợi, sau khi trừ các khoản chi phí, sản phẩm còn lại nộp cho bà Huỳnh Thị Sang.

    Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông Huỳnh Kim Toàn xin bà Huỳnh Thị Sang cho một ít đất để các con ông có đất sản xuất và làm nhà ở. Ngày 01-01-1981 , bà Sang ký giấy cho ông Toàn ''6 sào'' đất để cất nhà và trồng trọt (BL 12).

    Từ năm 1981 đến năm 1983, ông Toàn và bà Hà đã chia đất cho 8 người con, mỗi người 5 sào. Sau khi ông Toàn chết năm 1987, bà Hà và các con đã tự ý bán đất cho nhiều người và từ năm 1994 bà Hà không nộp hoa lợi cho bà Sang nữa. Hiện nay bà Hà chỉ quản lý 28.203m2.

    Ngày 15-03-1995, bà Huỳnh Thị Sang khởi kiện yêu cầu bà Hà và những người mua đất của bà Hà và con bà Hà trả vườn cây gắn liền quyền sử dụng đất cho bà Sang. Ngày 16 và ngày 22-12-2000, ngày 02-01-2001 bà Sang có đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với những người mua đất, chỉ giữ yêu cầu khởi kiện đối với bà Hà. Bà Sang yêu cầu bà Hà trả vườn cây ăn trái, có diện tích 28.103m2 (đã trừ 100m2 bà Sang cho ông Nguyễn Thế Tài).

    Trong các lời khai của bà Lê Thị Hà ngày 10-10-1995, ngày 02-08- 1996, ngày 24-06-1996, bà Hà thừa nhận vợ chồng bà làm công cho bà Sang từ năm 1965, nhưng tại lời khai của bà Lê Thị Hà ngày 14 và ngày 20-12-2000, tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm bà Hà khai nguồn gốc đất do chồng bà và bà Sang cùng hùn vốn mua chung, bà Sang chỉ có 5 sào.

    Tại Quyết định số 08 ngày 10-01-2000 Toà án nhân dân huyện Long Khánh chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai giải quyết, do các con bà Sang đang định cư ở nước ngoài.

    Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/DSST ngày 21-05-2001, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Sang đối với bà Lê Thị Hà về việc đòi quyền sở hữu vườn cây ăn trái.

    Buộc bà Lê Thị Hà phải có trách nhiệm thanh toán cho bà Huỳnh Thị Sang giá trị đất và giá trị cây trên diện tích 22. 103m2 đất là 290.462.000 đồng (trong đó giá trị cây là 69.432.000 đồng, giá trị đất là 221.030.000 đồng). Bà Lê Thị Hà được sở hữu vườn cây ăn trái và được quản lý, sử dụng diện tích đất 22.103m2 ( thửa số 519 tờ bản đồ số 13) toạ lạc tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

    Tiếp tục kê biên diện tích đất 28.103m2 (theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11 ngày 4-7-1996 của Toà án nhân dân huyện Long  Khánh) trên đất có cây ăn trái (số lượng như định giá ngày 11-12-2000) để đảm bảo thi hành án.

    Ghi nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Thị Sang cho ông Nguyễn Thế Tài được quyền sử dụng diện tích đất có căn nhà ông Tài toạ lạc là 100m2 (ngang 8m dài 12,5m) nằm trong thửa số 519 bà Hà đang quản lý.

    Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Sang về việc Kiện đòi đất vườn bị chiếm đoạt.

    Huỷ một phần quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11 ngày 04-07- 1996 của Toà án nhân dân huyện Long Khánh đối với các diện tích đất gồm: Huỳnh Thị Kim Loan 2.587m2 thửa 596; Trần Thị Thơm 4.800m2 thửa 887; Võ Thành Hưng 3.202 m2 thửa 594; Lê Thị Tuyết 2.229m2 thửa số 595; Trần Ngọc Mỹ 7.485m2 thửa số 412; Đậu Khắc Châu 5.771m2 thửa 417; Huỳnh Thị Chơi 3.452m2 thửa số 593; Trần Thị Phụng 3.141m2 thửa 522; Nguyễn Khắc Suốt 240m2 thửa 591; Vũ Hồng Bàn 6.976m2 thửa số 523; Hoàng Văn Hội (mua của Lê Văn Tấn) 2.822m2 thửa số 416 và 216m2 thửa 415; Nguyễn Kim Châu mua của Nguyễn Văn Minh 4.002m2 thửa 415; Đậu Khắc Sinh 2.650m2 thửa 414. Những người đang quản lý các diện tích đất trên có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai đăng ký quyền sử dụng đất.

    Bà Lê Thị Hà phải nộp 2.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

    Hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Sang 200.000 đồng dự phí án phí".

     Ngày 23-05-2001, bà Lê Thị Hà kháng cáo yêu cầu  định giá lại cây trồng, trên đất có nhiều người ở, Toà án tách ra giải quyết riêng là thiệt thòi quyền lợi cho bà.

    Ngày 24-05-2001, bà Huỳnh Thị Sang kháng cáo; ngày 28-03-2002 bà Sang có đơn bổ sung kháng cáo yêu cầu bà Hà phải thanh toán giá trị 28.103m2 đất theo Quyết định số2963/QĐ-UBT ngày 16-08-2001 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, giá trị cây trồng trên đất theo biên bản kiểm kê định giá ngày 10-07-1996 của Toà án nhân dân huyện Long Khánh, không đồng ý cho bà Hà 6 sào đất trong diện tích 28.103m2.

    Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 227/DSPT ngày 05-09-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Sang đối với bà Lê Thị Hà về việc tranh chấp quyền sở hữu vườn cây ăn trái, bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Hà. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 21/ DSST ngày 21-05-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

    Buộc bà Lê Thị Hà phải có trách nhiệm thanh toán cho bà Huỳnh Thị Sang giá trị đất và giá trị cây trên diện tích 28.103m2 đất là 950.987.900 đồng (trong đó giá trị cây là 408.600.000 đồng, giá trị đất là 542.387.900 đồng). Bà Lê Thị Hà được sở hữu vườn cây ăn trái và được quản lý, sử dụng diện tích đất 28.103m2 (thửa số 519, tờ bản đồ số 13) toạ lạc tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

     

    Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

    Bà Lê Thị Hà phải nộp 50.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp. Bà Huỳnh Thị Sang không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại cho bà Huỳnh Thị Sang tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp,

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lê Thị Hà có đơn khiếu nại vẫn cho rằng vợ chồng bà cùng với bà Huỳnh Thị Sang mua đất và trồng cây. Toà án cấp phúc thẩm chưa điều tra tuổi thọ của từng loại cây để phân loại cây nào do gia đình bà trồng, buộc bà thanh toán cho bà Sang giá trị đất và cây trồng với số tiền 950.987.500 đồng là quá oan ức.

    Tại Quyết định kháng nghị số37/KN-VKSTC-V5 ngày 29-04-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 21/DSST ngày 21-05-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, Bản án dân sự phúc thẩm số 227/DSPT ngày 05-09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để điều tra, xác minh xét xử sơ thẩm lại vụ án.

    XÉT THẤY:

    Theo đơn khởi kiện và một số lời khai ban đầu, bà Huỳnh Thị Sang yêu cầu bà Lê Thị Hà và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả vườn cây ăn trái gắn liền quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Thị Sang, nhưng đến ngày 22-12-2000 bà Huỳnh Thị Sang rút yêu cầu khởi kiện đối với những ông bà sau: bà Huỳnh Thị Kim Loan, bà Trần Thị Thơm, ông Võ Thành Hưng, bà Lê Thị Tuyết, ông Trần Ngọc Mỹ, ông Đậu Khắc Châu, bà Huỳnh Thị Chơi, bà Trần Thị Phụng, ông Nguyễn Khắc Suốt, ông Vũ Hồng Bàn, ông Hoàng Văn Hội, ông Nguyễn Kim Châu, ông Đậu Khắc Sinh nên Toà án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết, đồng thời ghi rõ những người quản lý các diện tích đất trên có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai đăng ký quyền sử dụng đất. Đối với phần diện tích 100m2 trên có căn nhà ông Tài sử dụng, bà Sang đã cho ông Tài và Bản án dân sự sơ thẩm số 21/DSST ngày 21-05-2001 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ghi nhận sự tự nguyện đó. Sau khi xử sơ thẩm, các đương sự không kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị nên các phần này đã có hiệu lực pháp luật.

    Đối với vườn cây ăn trái có diện tích 28.103m2 đất thuộc thửa 519, tờ bản đồ số 13 tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (là một phần trong tổng số diện tích 6,87 mẫu) bà Huỳnh Thị Sang vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đề nghị Toà án buộc bà Hà phải trả cho bà Sang diện tích đất nêu trên. Xét thấy diện tích đất trên là do bà Sang mua. Sau khi mua đất, bà Huỳnh Thị Sang đã trồng cây cà phê, cây chôm chôm, cây sầu riêng. Năm 1975, bà Huỳnh Thị Sang giao cho vợ chồng ông Huỳnh Kim Toàn và bà Lê Thị Hà quản lý chăm sóc vườn cây, sản phẩm thu được hàng năm sau khi trừ chi phí đầu tư cho sản xuất, còn lại nộp cho bà Sang. Bà Lê Thị Hà cho rằng ông Huỳnh Kim Toàn cùng hùn vốn mua chung diện tích đất nêu trên với bà Huỳnh Thị Sang, nhưng bà Lê Thị Hà không có chứng cứ để chứng minh. Trong khi đó, lời khai của bà Lê Thị Hà ngày 10-01-1995, ngày 02-08-1996 và ngày 24-06-1996 bà Lê Thị Hà thừa nhận vợ chồng bà Lê Thị Hà làm công cho bà Huỳnh Thị Sang từ năm 1965năm 1975 bà Huỳnh Thị Sang giao cho vợ chồng bà Lê Thị Hà, quản lý, chăm sóc vườn cây. Tuy nhiên, từ sau ngày miền Nam giải phóng đến nay, diện tích vườn nói trên có đưa vào Tập đoàn sản xuất, Hợp tác xã hay bị Nhà nước trưng thu, trưng dụng, trưng mua hay không? chưa được điều tra làm rõ. Nếu có căn cứ diện tích đất vườn nói trên thuộc về bà Sang thì cũng phải làm rõ công sức của bà Hà trong việc bồi bổ đất đến đâu, xác định rõ giá trị phần đất thổ cư và phần đất nông nghiệp. Mặt khác, căn cứ vào giấy ''cho đất cất nhà", ngày 01-01-1981 thì bà Huỳnh Thị Sang cho gia đình bà Lê Thị Hà diện tích đất khoảng 6 sào có hình tam giác, hai bên đầu sông, chạy dọc theo đường đi... Theo bản đồ phân sổ đất địa bộ số 17 lập ngày 26-04-1957 thì lô đất của bà Huỳnh Thị Sang ngoài phần trồng cây cao su phía trong đã giao cho Nhà nước quản lý, còn phía ngoài có hai cạnh giáp Quốc lộ 1 tạo thành góc nhọn. Theo sơ đồ hiện trạng khu đất do Phòng Địa chính huyện Long Khánh lập năm 1996, thì hình thể khu đất đã thay đổi do Nhà nước đã thu hồi đất làm đường Quốc lộ 1 chạy cắt qua 2 cạnh nói trên.Vậy vị trí đất do Nhà nước thu hồi để mở đường trên lô đất của bà Huỳnh Thị Sang có phải là vị trí mảnh đất hình tam giác được nêu trong giấy cho đất ngày 01-01-1981 hay không? Trong trường hợp vị trí 6 sào đất nói trên không phải ở vị trí đất do Nhà nước thu hồi thì diện tích đất này ở vị trí nào? Ai đang quản lý, sử dụng? đồng thời, cần làm rõ sự chênh lệch số cây giữa biên bản định giá ngày 10-07-1996 và biên bản định giá ngày 11-12-2000 là do gia đình bà Lê Thị Hà đốn chặt hay còn lý do nào khác? .

    Vì lẽ trên, căn cứ khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ một phần Bản án dân sự phúc thẩm số 227/DSPT ngày 05-09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 21/DSST ngày 21-05-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xử về vụ án đòi 28.103m2đất vườn cây có nguyên đơn là bà Huỳnh Thị Sang và bị đơn là bà Lê Thị Hà và phần án phí có liên quan đến phần này. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
     

    Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ một phần :

     Điều tra chưa rõ ràng về diện tích đất vườn của nguyên đơn.

     

     
    2896 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận