Số hiệu
|
20/2003/HĐTP-HS
|
Tiêu đề
|
Quyết định số20/2003/hđtp-hs ngày 26-08-2003 về vụ án lê thu huyền phạm tội "mua bán trái phép chất ma tuý"
|
Ngày ban hành
|
26/08/2003
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
QUYẾT ĐỊNH SỐ20/2003/HĐTP-HS NGÀY 26-08-2003
VỀ VỤ ÁN LÊ THU HUYỀN PHẠM TỘI
"MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ"
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.........
Tại phiên toà ngày 26-08-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với:
Lê Thu Huyền sinh năm năm 1974; trú tại số TK 46/1 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; làm nghề kế toán; cha Lê Bá Thọ, mẹ Lê Thị Minh Hải là bị cáo trong vụ án. Bị bắt giam từ ngày 03-08-2000 đến ngày 12-06-2002 (Trong vụ án này còn có các bị cáo không bị kháng nghị là Lê Thị Minh Hải, Lê Xuân Siêu, Nguyễn Thị Hương).
NHẬN THẤY:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 03-08-2000 Nguyễn Thị Hồng ở thành phố Vũng Tàu đến số nhà TK 46/1 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh mua 02 phân Hêrôin. Hồng đưa 350.000 đồng cho Lê Thị Minh Hải, Hải đưa tiền cho Nguyễn Thị Hương cất giữ trong túi quần, Lê Xuân Siêu vào bếp lấy Hêrôin giao cho Hồng thì bị các chiến sĩ công an thuộc Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma tuý- Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết hợp với Công an phường Cầu Kho, quận 1 bắt quả tang.
Thu giữ tại bếp nhà Hải được 02 chiếc bóp bên trong có chứa 22 bọc ni lon đựng chất bột màu trắng, dưới vỏ thùng bia có một bọc ni lon đựng chất bột màu trắng.
Thu giữ tại ngăn kéo tủ nhỏ ở lầu một số tiền 10.850.000 đồng và 600USD. Thu giữ tại phòng vệ sinh được 20.040.000 đồng và 2 chiếc điện thoại di động của Lê Thu Huyền. Tại Công an phường Cầu Kho, khi Cơ quan điều tra đang tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang thì Huỳnh Nghĩa Nhơn là đối tượng mua Herôin gọi vào điện thoại di động của Huyền (số 090861 793) hỏi mua Hêrôin. Cơ quan Điều tra đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với Lê Thu Huyền.
Tại cáo trạng số513/KSĐT-AN ngày 02-l1-2001 Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Lê Thị Minh Hải, Lê Thu Huyền, Lê Xuân Siêu về tội mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 2 Điều l94; Nguyễn Thị Hương theo khoản1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 708/HSST ngày 12-06-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm p, h khoản 2 Điều 194; điểm p, s khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Thị Minh Hải 8 năm tù và Lê Xuân Siêu 07 năm tù đều về tội mua bán trái phép chất ma tuý; áp dụng khoản 1 Điều 313, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 69 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thị Hương 01 năm 10 tháng 9 ngày tù về tội che giấu tội phạm; áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 194 Bộ luật Hình sự tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý.
- Ngày 17-06-2002 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị đề nghị xử phúc thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Lê Thị Minh Hải và kết án Lê Thu Huyền, Nguyễn Thị Hương về tội mua bán trái phép chất ma tuý.
- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 1334/HSPT ngày 16-08-2002 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã tăng hình phạt đối với Lê Thị Minh Hải lên 10 năm tù, chuyển tội danh đối với Nguyễn Thị Hương sang tội mua bán trái phép chất ma tuý, áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên bị cáo Lê Thu Huyền không phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý. Kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét lại trường hợp Lê Thu Huyền, theo hướng có tội mua bán trái phép chất ma tuý.
Tại Quyết định kháng nghị số 21/VKSNTC/V3 ngày 13-06-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị một phần Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 708/HSST ngày 12-06-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với Lê Thu Huyền. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm để huỷ một phần Bản án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm nêu trên đối với Lê Thu Huyền. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử Lê Thu Huyền theo tội danh và điều luật như Quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
XÉT THẤY:
Lời khai của bị cáo Lê Thị Minh Hải, Lê Xuân Siêu lúc đầu không nhận tội nhưng tại các lời khai khi bắt đầu nhận tội đều khai Huyền có tham gia mua bán Hêrôin.
Lời khai của Lê Thị Minh Hải (là mẹ của Huyền) ngày 05-08-2000 đã khai : “...tôi giao việc cho các cháu Siêu, Hương, Huyền khi có khách quen và đếm đủ tiền đến mua thì bán. Không bán cho khách lạ... (BL 126)”. Sau này, Hải lại thay đổi lời khai và khai là Huyền không tham gia bán Hêrôin, lý do khai Huyền là nhằm làm nhẹ tội cho Hải.
Lê Xuân Siêu tại các lời khai ngày 05-08; 18-08; tự khai ngày 08-08-2000 khai : Huyền có tham gia mua bán Hêrôin và việc mua bán Harôin về số lượng cũng như về giá cả là điều bí mật của Hải và Huyền. Nhưng sau đó, bị cáo Siêu lại thay đổi lời khai, lúc thì khai Huyền không tham gia mua bán Hêrôin, lúc thì lại khai Huyền có tham gia hay không thì bị cáo không biết.
Các nhân chứng là người đã mua Hêrôin của Huyền đã khai:
* Trần Anh Kiệt khai: tôi cùng Dũng mua Hêrôin của người phụ nữ tên là Phương. Tại biên bản nhận dạng (BL 51) Kiệt nhận người trong ảnh (mang số 10121 là Phương đã bán Hêrôin cho Kiệt, ảnh mang số 10121 là Lê Thu Huyền). Tuy nhiên, tại biên bản đối chất ngày 04-01-2002 giữa Kiệt và Huyền thì Kiệt lại khai không biết Huyền là ai.
* Huỳnh Nghĩa Nhơn khai: Nguyễn Văn Nam là người đã nhờ tôi mua Hêrôin của chị Phương 3 lần: lần l vào ngày 25-07-2000 tôi mua 2 chỉ với giá 3.800.000đ; lần 2 vào ngày 28-07-2000 tôi cũng mua 2 chỉ với giá 3.800.000đ; lần 3 vào ngày 03-08-2000 tôi điện cho chị Phương theo số máy 090 861793 và hẹn chờ ở Công viên đường Hùng Vương để lấy hàng thì bị Công an bắt giữ (theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì trong khi Cơ quan Công an đang lập biên bản phạm pháp quả tang đối với Hải, Siêu, Hương, Hồng và đang tạm giữ 2 máy điện thoại di động,trong đó có 1 chiếc mà Nhơn đã gọi điện đến. Chiếc này Huyền đã thừa nhận là của Huyền mới mua của một người không quen biết vào khoảng cuối tháng 07-2000).
* Trịnh Minh Trung khai: tôi đã 5 lần mua Hêrôin của chị Thuỷ ở quán Cà phê; tại biên bản nhận dạng Trung khẳng định người trong ảnh mang số 10121 là Thuỷ (ảnh mang số 10121 là Lê Thu Huyền).
* Nguyễn Thị Hồng trong bản tự khai ngày 03-08-2000, lời khai ngày 29- 08-2000 khai: tôi mua Hêrôin của nhà bà Hải 06 lần, lần đầu tiên Huyền thu tiền còn Hương đưa hàng và lần thứ 5 Huyền nhận tiền còn Hải giao hàng (BL 94). Ngoài ra, Hồng còn khai lần đầu tiên mua hàng của nhà Hải là mua của Huyền 1 cục Hêrôin với giá 170 ngàn đồng (BL 89).
Qua các lời khai trên thì thấy rằng: bị cáo Hải thay đổi lời khai và khai Huyền không tham gia vào việc mua bán Hêrôin, nhưng lý do bị cáo nại ra là khai cho Huyền để nhằm nhẹ tội cho bị cáo là không đúng thực tế, vì Huyền đã thành niên nên phải chịu trách nhiệm hình sự, chứ không phải khai cho Huyền để nhẹ tội cho Hải được. Bị cáo Siêu có 3 lời khai ban đầu và bản tự khai đều khai Huyền có tham gia mua bán Hêrôin, sau đó, Siêu lại thay đổi lời khai và khai không nhìn thấy Huyền bán Hêrôin, lý do khai cho Huyền có bán Hêrôin là do sự tự suy diễn. Lời khai này của Siêu là không chấp nhận được, bởi giữa Siêu và Huyền không có mâu thuẫn gì (Siêu còn được gia đình Huyền cưu mang), Siêu cũng không khai là bị công an ép cung. Trần Anh Kiệt khi cho đối chất trực tiếp lại khai không biết Huyền là ai, nhưng vẫn thừa nhận chữ ký tại biên bản nhận dạng qua ảnh là đúng. Việc thị Hồng và một số nhân chứng khác như Nhơn, Trung sau này không có mặt tại phiên toà đối chất do đã trốn, nhưng thị Hồng trốn khỏi nơi tạm giữ tại trụ sở Uỷ ban nhân dân phường Cầu Kho ngày 04-08-2000, sau đó, cơ quan điều tra tiếp tục lấy lời khai ngày 29-08-2000 Hồng vẫn khai Huyền có tham gia mua bán Hêrôin chứ không phải trốn khỏi địa phương từ ngày 04-08-2000 (sau này thị Hồng mới trốn khỏi nơi cai nghiện).
Như vậy, mặc dù Lê Thu Huyền tại cơ quan điều tra cũng như tại các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm không thừa nhận tham gia mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng căn cứ lời khai của các bị cáo Hải, Siêu và lời khai của các nhân chứng về việc Huyền có tham gia mua bán ma tuý và chứng cứ khác như về việc Nhơn gọi điện thoại đúng số điện thoại di động của Huyền. Tổng hợp tất cả các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xét thấy hành vi của Lê Thu Huyền có dấu hiệu của tội mua bán trái phép chất ma tuý.
Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý là không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, còn bỏ lọt người phạm tội.
Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 254, 256 Bộ luật Tố tụng Hình sự,
QUYẾT ĐỊNH :
1- Huỷ một phần Bản án hình sự phúc thẩm số 1334/HSPT ngày 16-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 708/HSST ngày 12-06-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử và tuyên áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 194 Bộ luật Hình sự, tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ một phần:
Mặc dù bị cáo Lê Thu Huyền không thừa nhận hành vi phạm tội của mình và lời khai của các bị cáo khác cũng như của các nhân chứng có mâu thuẫn, nhưng đánh giá một cách toàn diện, khách quan thì có căn cứ để kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.