Quyết định số 14/2003/hđtp-ds ngày 28-05-2003 về vụ án ly hôn

Chủ đề   RSS   
  • #264658 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định số 14/2003/hđtp-ds ngày 28-05-2003 về vụ án ly hôn

    Số hiệu

    14/2003/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định số14/2003/hđtp-ds ngày 28-05-2003 về vụ án ly hôn

    Ngày ban hành

    28/05/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ14/2003/HĐTP-DS NGÀY 28-05-2003
    VỀ VỤ ÁN LY HÔN


    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    ......................

    Tại phiên toà ngày 28-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án ly hôn giữa các đương sự:

    Nguyên đơn : Chị Nguyễn Thu Lan, 42 tuổi;

    Bị đơn          : Anh Trần Huấn Dũng, 42 tuổi;

    Cả nguyên đơn và bị đơn đều trú tại phòng 106, N35 số 39 Trần Khánh Dư, thành phố Hà Nội.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông Trần Ngà, 70 tuổi;

    2. Bà Trần Thị Tâm, 68 tuổi;

    Cả hai ông bà đều trú tại xóm 8, Định Công, Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

    3. Anh Nguyễn Thế Phong, 53 tuổi; trú tại phòng 3, nhà A3, tập thể Xí nghiệp CKĐT Đài TNVN, phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

    4. Bà Trần Thị Xuyến, 74 tuổi; trú tại phòng 202, A1 tập thể nhà Dầu, ngõ Lê Duẩn, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

    5. Anh Nguyễn Việt Cường, 45 tuổi; trú tại phòng 202, A1 tập thể nhà Dầu, ngõ Lê Duẩn, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

    6. Bà Đỗ Thị Thìn, 61 tuổi; trú tại phòng 107 N35, 39 Trần Khánh Dư, thành phố Hà Nội.

    7. Chị Trần Thị Lan Anh, 44 tuổi; trú tại xóm 8, Định Công, Thanh Trì, thành phố Hà Nội

    8. Anh Nguyễn Minh Hải, 40 tuổi; hiện ở Ba Lan (không rõ địa chỉ).

    NHẬN THẤY:

    Chị Nguyễn Thu Lan và anh Trần Huấn Dũng kết hôn hợp pháp ngày 08-02-1985. Năm 1996, mâu thuẫn phát sinh. Năm 2001, chị Lan xin ly hôn, anh Dũng đồng ý ly hôn.

    Về con chung : có 1 cháu là Trần Hoàng Bảo, sinh ngày 11 tháng 08 năm 1986

    Tài sản chung:

    + 1 số đồ dùng sinh hoạt hiện chị Lan đang quản lý có tổng trị giá 34.180.000 đồng,

    + 1 xe máy anh Dũng đang quản lý trị giá 20.000.000 đồng,

    + 1 mảnh đất đã bán năm 2000 trị giá 31.654.000 đồng,

    Về nợ chung : 2 bên xác nhận tổng số nợ là 2 lạng vàng + 1300 USD + 4.000.000đồng của 1 số cá nhân như sau :

    - Chị Lan Anh 2 lạng vàng  + 200 USD,

    - Bà Thìn 200 USD,

    - Bà Xuyến, anh Cường 4.000.000đồng  + 400 USD

    - Anh Hải 500 USD.

    Nhà ở, vợ chồng đang ở tại nhà P 106-N35 tập thể Viện 108, số 39 Trần Khánh Dư, thành phố Hà Nội.

    Về nguồn gốc nhà đang ở: Chị Lan khai, chị và mẹ chồng chị là bà Trần Thị Tâm cùng làm việc tại Viện 108. Năm 1985, chị kết hôn cùng anh Dũng, vợ chồng chị về ở với gia đình chồng tại 24 Phan Chu Trinh, sau đó về ở tập thể Viện 108, còn bố mẹ chồng chuyển về tại xóm 8, xã Định Công, Thanh Trì. Năm 1988, bà Tâm nghỉ hưu, bà đã được Viện 108 cấp tiền làm nhà bằng vật liệu, bà Tâm nói với chị Lan nếu chị xin được cấp nhà theo tiêu chuẩn của bà ở Hà Nội thì bà sẽ cho vợ chồng chị. Chị đã viết đơn xin nhà, bằng sự nỗ lực của cá nhân và sự giúp đỡ tận tình của đơn vị chị công tác, năm 1990, Viện 108 đã phân cho 1 nhà diện tích 18m2 tại A6 khu tập thể Viện 108. Quyết định phân nhà không ghi tên ai, chính chị đã viết tên bà Trần Thị Tâm vào quyết định phân nhà. Sau khi được phân nhà, vợ chồng chị ở đó. Năm 1997, do cơ quan giải phóng mặt bằng đã chuyển đổi cho vợ chồng chị về phòng 106 N35 tập thể Viện 108 số 39 Trần Khánh Dư, thành phố Hà Nội, có diện tích 40,02m2. Năm 1998, chị và anh Dũng đã đập toàn bộ tường, xây lại toàn bộ nội thất trong căn hộ thành phòng ở và khu phụ (có lấn thêm ra phần đất lưu không khoảng 15m2), chi phí sửa nhà hết 74.000.000đồng. Khi khánh thành nhà, vợ chồng chị có mời bố mẹ, anh em 2 họ đến dự liên hoan, trước mặt 2 họ, bố mẹ chồng tuyên bố cho vợ chồng chị nhà trên. Năm 1999, chị đưa tiền cho anh Dũng và bố chồng nộp để mua thanh lý nhà. Vì vậy, nhà được cấp sổ đỏ, bố chồng chị đã cầm sổ đỏ đưa cho chị giữ đến nay.

    Như vậy, mặc dù giấy phân nhà và sổ đỏ của căn nhà đứng tên bà Trần Thị Tâm, nhưng thực chất là của vợ chồng chị. Hơn nữa, vợ chồng bà Tâm chưa bao giờ ở tại căn nhà trên mà ở tại xóm 8, xã Định Công. Nay, chị và anh Dũng ly hôn, chị xin được nuôi con và xin chia 1/2 căn nhà.

    Bà Tâm, ông Ngà và anh Dũng khai : Căn hộ đó là của bà Tâm được cấp; tiền mua thanh lý cũng của vợ chồng bà, bà chỉ cho vợ chồng anh Dũng ở nhờ. Nếu sống hoà thuận thì cho, ly hôn thì trả lại nhà cho ông bà, ông bà sẽ thanh toán tiền sửa nhà cho vợ chồng anh Dũng, chị Lan.

    Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 62 ngày 26-03-2001, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử :

    - Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lan và anh Dũng.

    - Về con: Công nhận sự thoả thuận giữa chị Lan và anh Dũng; giao cho chị Lan trực tiếp nuôi con chung là Trần Hoàng Bảo sinh ngày 11-08-1986. Buộc anh Dũng góp phí tổn nuôi con 200.000đồng/1 tháng đến khi con trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác.

    - Về tài sản : Xác định tài sản chung của vợ chồng gồm :

    + Động sản : 54.180.000đồng,

    + Tiền bán đất : 31.654.000đồng,

    + Giá trị xây dựng nhà : 53.525.000đồng,

    Cộng : 139.259.000đồng

    Chia cho chị Lan 3/5       = 83.555.400đồng

    Chia cho anh Dũng 2/5    = 55.703.600đồng

    - Về hiện vật :

    Chia cho chị Lan :

    + Số đồ dùng chị đang quản lý 34.180.000đồng

    + Tiền bán đất : 31.654.000đồng

    +  1/2tiền xây dựng : 26.762.000đồng

    Cộng 92.496.000đồng

    Chia cho anh Dũng: 1 xe máy 20.000.000đồng, 1/2 tiền xây dựng bằng 26.762.000đồng,

    Cộng = 46.762.000đồng

    Chị Lan phải trả chênh lệch cho anh Dũng 8.940.000đồng

    - Về chỗ ở: Xác định phòng 106 N35 số 39 Trần Khánh Dư, Hà Nội thuộc sở hữu của bà Tâm, ông Ngà; buộc anh Dũng, chị Lan phải thanh toán lại toàn bộ diện tích nhà trên cho bà Tâm. Bà Tâm, ông Ngà phải thanh toán tiền sửa chữa xây dựng cho chị Lan, anh Dũng mỗi người 26.762.000đồng, chị Lan được lưu cư tại phòng thứ 3 (phía phải đứng từ cửa sắt chính nhìn vào) thời hạn 2 năm, lối đi cùng diện tích phụ sử dụng chung.

    - Về nợ: Anh Dũng phải trả nợ 700 USD + 2 lạng vàng

    Chị Lan phải trả nợ 600 USD + 4.000.000đồng.

    Sau khi xử sơ thẩm, chị Lan, anh Dũng và ông Ngà kháng cáo

    Tại Bản án phúc thẩm số 24 ngày 05-03-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định :

    - Xác định tài sản chung của vợ chồng anh Trần Huấn Dũng và chị Nguyễn Thu Lan, tổng cộng giá trị là 171.359.000đồng.

    - Chia cho chị Nguyễn Thu Lan 3/5 giá trị tài sản bằng 102.815.400đồng

    - Chia cho anh Trần Huấn Dũng 2/5 giá trị tài sản bằng 68.543.600đồng

    - Chị Nguyễn Thu Lan được nhận các tài sản bằng tiền tổng cộng là 124.596.000đồng, phần tài sản chị Lan được hưởng là 102.815.000đồng, số tiền chị Lan được nhận dư ra là 21.781.000đồng. Chị Nguyễn Thu Lan phải thanh toán lại cho anh Trần Huấn Dũng số tiền 21.781.000đồng.

    - Anh Trần Huấn Dũng được chia 1 xe máy SPasy trị giá 20.000.000đồng và được nhận số tiền 26.762.000đồng do bà Tâm, ông Ngà thanh toán. Cộng 2 khoản là 46.762.000 đồng và anh Dũng được nhận ở chị Lan 21.781.000đồng.

    - Bà Trần Thị Tâm và ông Trần Ngà phải thanh toán cho chị Nguyễn Thu Lan số tiền 26.762.000đồng

    - Bà Trần Thị Tâm và ông Trần Ngà phải thanh toán cho anh Trần Huấn Dũng số tiền 26.762.000đồng.

    - Về khoản nợ :

    Chị Lan phải trả nợ cho bà Đỗ Thị Thìn 200 USD, anh Nguyễn Việt Cường 400 USD, bà Trần Thị Xuyến 4.000.000đồng. Anh Trần Huấn Dũng phải trả nợ cho chị Trần Thị Lan Anh 2 lượng vàng và 200 USD, anh Nguyễn Minh Hải 500 USD.

    Chị Nguyễn Thu Lan phải thanh toán lại cho anh Trần Huấn Dũng một phần số tiền chênh lệch trả nợ là 1.300.000đồng.

    Xác định phòng 106-N35 số 39 Trần Khánh Dư, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Tâm và ông Trần Ngà. Anh Trần Huấn Dũng và chị Nguyễn Thu Lan có trách nhiệm trả lại toàn bộ diện tích nhà cho bà Tâm, ông Ngà.

    - Chị Nguyễn Thu Lan được lưu cư tại phòng thứ 3 (phía tay phải đứng từ cửa sắt chính nhìn vào) thời hạn lưu cư 12 tháng (kể từ ngày tuyên án phúc thẩm). Lối đi, diện tích phụ sử dụng chung.

    Chị Nguyễn Thu Lan có trách nhiệm trả lại cho bà Trần Thị Tâm, ông Trần Ngà các giấy tờ về quyền sở hữu căn hộ 106-N35 số 39 Trần Khánh Dư, Hà Nội (do chị Lan đang giữ).

    Ngoài ra Bản án còn tuyên về án phí chia tài sản cho các đương sự.

    Sau khi xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thu Lan có nhiều đơn khiếu nại xin được chia  1/2 nhà để ở nuôi con.

    Tại Quyết định kháng nghị số 12 ngày 15-11-2002, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị phần giải quyết về nhà đất trong Bản án phúc thẩm số 24 ngày 05-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội theo hướng chia cho chị Lan một phần diện tích của căn nhà và được khấu trừ vào khoản công sức của chị Lan.

    Tại Kết luận số 38 ngày 14-03-2003, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ Bản án phúc thẩm trên, giao hồ sơ cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử lại phúc thẩm theo hướng kháng nghị đã nêu.

    XÉT THẤY :

    Bản án phúc thẩm đã giải quyết đúng về quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi con chung, nhưng việc xác định tài sản chung của chị Lan và anh Dũng và việc phân chia nhà đất là chưa hợp lý.

    Căn hộ 106 N35, số 39 Trần Khánh Dư, Hà Nội hiện đứng tên bà Tâm là chủ sở hữu. Đây là nhà mua thanh lý, đối tượng được quyền mua là chủ sử dụng được cấp trước đó. Căn hộ được cấp ban đầu chỉ có diện tích 18m2 tại A6 tập thể Viện Quân y 108. Ngay sau khi được cấp thì chỉ có vợ chồng chị Lan, anh Dũng sử dụng nhà. Đến năm 1997, vợ chồng chị Lan, anh Dũng được chuyển đổi sang căn hộ 106 N35 với diện tích 40,02m2. Năm 1998, vợ chồng chị Lan, anh Dũng sửa chữa, cơi nới thành diện tích 55,02m2. Đến năm 1999, mới có việc mua thanh lý nhà và diện tích chứng nhận sở hữu cũng chỉ là 40,02m2. Như vậy, còn có 15m2 không nằm trong giấy chứng nhận sở hữu nhà đứng tên bà Tâm.

    Với diễn biến hình thành sở hữu và quá trình sử dụng như đã nêu trên, có một số vấn đề cần được xác minh, làm rõ: Diện tích 18m2 được cấp ban đầu là theo tiêu chuẩn của bà Tâm bình thường như những cán bộ khác hay có tính đến việc chị Lan là con dâu bà Tâm đang công tác tại Viện (theo chị Lan khai thì quyết định cấp nhà không ghi tên, chị tự ghi tên bà Tâm vào quyết định). Khi chuyển đổi nhà, việc tăng diện tích từ 18m2 lên 40,02m2 là bình thường như các hộ khác hay có tính đến các thành viên đang sử dụng nhà. Việc bán nhà thanh lý vào năm 1999 chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn của bà Tâm hay có xét đến các thành viên trong hộ đang  sử dụng nhà. Quá trình xin cấp nhà, cũng như lo thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất, chị Lan có công sức gì không? Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chỉ xác định chi phí sửa chữa nhà thuộc tài sản chung của chị Lan, anh Dũng trong khi chưa xác minh đầy đủ những vấn đề nêu trên là chưa đảm bảo chính xác quyền lợi hợp pháp của các đương sự.

    Trên thực tế, căn hộ 106 N35, số 39 Trần Khánh Dư đứng tên bà Tâm trong giấy tờ về nhà đất, nhưng trong khối tài sản này có một phần tài sản, công sức chung của vợ chồng anh Dũng, chị Lan đóng góp vào; sau khi ly hôn, chị Lan được giao nuôi con lại không có chỗ ở nào khác nên phải xem xét để chia một phần hiện vật cho chị Lan tương đương với phần quyền lợi mà chị Lan, anh Dũng đã bỏ ra cải tạo, cơi nới ,sửa chữa... căn nhà nói trên; có như vậy mới đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.

    Bởi các lẽ trên,

    QUYẾT ĐỊNH:

    - Huỷ toàn bộ phần chia tài sản và án phí chia tài sản (bao gồm cả phần giải quyết về nợ) tại Bản án phúc thẩm số 24 ngày 05-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và tại Bản án sơ thẩm số 62 ngày 26-03-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án ly hôn giữa chị Nguyễn Thu Lan và anh Trần Huấn Dũng.

    - Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xác minh, xét xử sơ thẩm phần chia tài sản theo đúng qui định của pháp luật.

    - Các quyết định khác của Bản án phúc thẩm nói trên không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

    Lý do các Bản án phúc thẩm, sơ thẩm bị huỷ một phần:

    Chưa xác định rõ phần tài sản chung của vợ chồng anh Dũng, chị Lan. Chị Lan sau khi ly hôn nuôi con nhỏ, không có chỗ ở nào khác, cần xem xét cho hợp lý.

     

     
    2727 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận