Số hiệu
|
06/2003/HĐTP-HS
|
Tiêu đề
|
Quyết định số06/2003/hđtp-hs ngày 26-05-2003 về vụ án vừ thị mo phạm tội "mua bán trái phép chất ma tuý"
|
Ngày ban hành
|
26/05/2003
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
QUYẾT ĐỊNH SỐ06/2003/HĐTP-HS NGÀY 26-05-2003
VỀ VỤ ÁN VỪ THỊ MO PHẠM TỘI
"MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ"
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.........
Tại phiên toà ngày 26-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với:
Vừ Thị Mo (còn có các tên gọi khác là Và Thị Mo, Và Thị Mỷ, Vừ Thị Mò) sinh năm 1970 (theo giấy chứng minh nhân dân); trú tại bản Ca Hâu, xã Na Ư; huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu; dân tộc H'Mông; nghề nghiệp làm ruộng; con ông Vừ Giống Vư (còn có các tên gọi khác là Và A Giống, Và A Chống) và bà Và Thị Vá; có chồng là Và Gà Chính (tên gọi khác là Và A Chu) và 05 con từ 06 đến 14 tuổi; bị bắt giam ngày 13-03-2001 .
NHẬN THẤY:
10 giờ ngày 13-03-2001 tổ công tác phòng chống tội phạm ma tuý Công an thị xã Điện Biên Phủ đang làm nhiệm vụ tại khu vực phố Thanh Mai, thị trấn Điện Biên đã bắt quả tang Và Thị Mỷ đang trên đường đi bán 02 bánh Hêrôin có trọng lượng là 754 gam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 117/HSST ngày 02- 10-2001, Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản1 Điều 46; Điều 41 Bộ luật Hình sự phạt Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Và Thị Mo) tử hình về tội mua bán trái phép chất ma tuý.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 19/HSPT ngày 15-01-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm đối với Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Và Thị Mo)
Tại Quyết định số06/HS-TK ngày 21-03-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị một phần Bản án hình sự phúc thẩm số 19/HSPT ngày 15-01-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về căn cước lý lịch của bị cáo; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao sửa một phần Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án này thì căn cước lý lịch của bị cáo chưa được xác định đầy đủ chính xác, cụ thể như sau:
Theo biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang thì họ và tên người bị bắt giữ là Và Thị Mỷ, sinh năm 1976; tại lệnh tạm giữ, lệnh khám xét nhà ở, đồ vật, biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ đều ghi là Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Vừ Thị Mò) và ghi các năm sinh là 1971, 1972, 1976; tại lệnh tạm giam bị can, bản khai lý lịch bị can, kết luận điều tra vụ án, cáo trạng đều ghi là Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Và Thị Mo) sinh năm 1971. Tại đơn xin tha tội chết, người bị kết án ghi tên là Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Và Thị Mo).
Theo Công văn số 725/PC 16 ngày 17-10-2002, Công văn số 54/PC 16 ngày 27- 12-2002 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu về việc xác minh lý lịch của người phạm tội; tại giấy chứng minh nhân dân thì người phạm tội có tên là Vừ Thị Mo, sinh năm 1970; tại sổ hộ khẩu gia đình do Và Gà Chính là chồng của bị cáo đứng tên chủ hộ thì bị cáo có tên là Và Thị Mo, sinh năm 1971, con gái đầu của bị cáo có tên là Và Thị Mỷ, sinh năm 1989.
Trong bản lý lịch bị can ghi tên bố của bị cáo là Và A Giống; trong đơn xin tha tội chết bị cáo ghi tên bố là Và A Chống; tại biên bản ghi lời trình bày ngày 25- 12-2002 ông Vừ Dúa Dình, người nuôi dưỡng bố đẻ bị cáo thì bố bị cáo có tên là Vừ Giống Vư.
Trong bản lý lịch bị can ghi họ và tên chồng của bị cáo là Và A Chu 35 tuổi (Và Gà Chính); trong sổ hộ khẩu gia đình ghi họ và tên chồng của bị cáo là Và Gà Chính sinh năm 1963.
Căn cứ vào các tài liệu nêu trên và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì bị cáo Vừ Thị Mo còn có các tên gọi khác là Và Thị Mo, Và Thị Mỷ, Vừ Thị Mò và chính là bị cáo đã bị xét xử, kết án trong vụ án này.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 19/HSPT ngày 15-01-2002 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội kết án bị cáo với họ và tên là Và Thị Mỷ (tên gọi khác là Và Thị Mo); họ và tên bố của bị cáo là Và A Giống; họ và tên chồng bị cáo là Và A Chu (tức Và Gà Chính) là chưa đầy đủ, không phù hợp với giấy chứng minh nhân dân; sổ hộ khẩu gia đình; lời trình bày của nhân chứng là ông Vừ Dúa Dình;
Vì các lẽ trên đây và căn cứ vào các điều 254, 257 Bộ luật Tố tụng Hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
l. Sửa phần căn cước bị cáo tại Bản án hình sự phúc thẩm số 19/HSPT ngày 15-01-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội như sau:
Vừ Thị Mo (còn có các tên gọi khác là Và Thị Mo, Và Thị Mỷ, Vừ Thị Mò) sinh năm 1970 (theo chứng minh nhân dân); trú tại bản Ca Hâu, xã Na Ư; huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu, dân tộc H'Mông ; nghề nghiệp làm ruộng; con ông Vừ Giống Vư (còn có các tên gọi khác là Và A Giống, Và A Chống) và bà Và Thị Vá; có chồng là Và Gà Chính (tên gọi khác là Và A Chu) và 5 con từ 6 đến 15 tuổi.
2. Sửa Quyết định tại Bản án hình sự phúc thẩm số 19/HSPT ngày 15-01-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội như sau:
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản l Điều 46 Bộ luật Hình sự phạt Vừ Thị Mo (còn có các tên gọi khác là Và Thị Mo, Và Thị Mỷ, Vừ Thị Mò) tử hình về tội mua bán trái phép chất ma tuý.
3. Các Quyết định khác của Bản án hình sự phúc thẩm không bị kháng nghị giám đốc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Lý do sửa Bản án phúc thẩm:
Bản án phúc thẩm ghi không chính xác phần căn cước của bị cáo.