Số hiệu
|
05/2004/HĐTP-HS
|
Tiêu đề
|
Quyết định số05/2004/hđtp-hs ngày 24-02-2004 về vụ án huỳnh văn minh phạm tội "giết người" và "hiếp dâm"
|
Ngày ban hành
|
24/02/2004
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
QUYẾT ĐỊNH SỐ05/2004/HĐTP-HS NGÀY 24-02-2004
VỀ VỤ ÁN HUỲNH VĂN MINH PHẠM TỘI
"GIẾT NGƯỜI" VÀ "HIẾP DÂM".
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.........
Tại phiên Toà ngày 24-02-2004 xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo:
- Huỳnh Văn Minh, sinh năm 1975; trú tại ấp Phú Ninh, xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm vườn; con ông Huỳnh Văn Út và bà Nguyễn Thị Nam; bị bắt giam ngày 26-06-1997.
NHẬN THẤY
Chiều ngày 12-06-1997 Huỳnh Văn Minh ở chòi giữ vườn một mình tại ấp Phú Hội, xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Minh nhiều lần đi thăm vườn, lần cuối cùng Minh đi chân đất, cầm dao mác vót và đèn pin ngồi ở đầu cầu nhìn qua nhà chị Nguyễn Thị Ngọc Lan, thấy đèn nhà chị Lan sáng, cửa mở, chị Lan ngồi ở ván thoa kem lên mặt và nghe cassette. Biết chị Lan ở nhà một mình, Minh nảy sinh ý định hiếp dâm nên đi qua cầu đến gốc dừa trước cửa nhà, thấy chị Lan đóng cửa, ngồi ăn bánh, sau đó tắt máy cassette, bỏ mùng đi nằm . Quan sát không thấy ai, Minh liền bỏ đèn pin ở gốc dừa, cầm dao đi đến cửa sổ, thấy đèn còn sáng, chị Lan nằm quay đầu vào hướng buồng. Minh đẩy cửa trước nhưng không được vì bị khoá. Minh đi vòng cửa sau, vào nhà đến bộ ván nơi chị Lan nằm, đặt dao lên ván dỡ mùng lên thì bị chị Lan phát hiện chồm dậy la '' Bớ làng xóm! Bớ làng xóm ơi!". Sợ bị lộ, Minh dùng hai tay bóp cổ chị Lan, hai người xô xát làm đứt các dây mùng, dao trên ván cũng bị rơi xuống đất. Chị Lan chống cự lại, đạp Minh ngã ra ngoài, Minh kéo tay chị Lan theo cùng với mùng, mền, gối. Chị Lan ngã úp mặt xuống đất ngay gốc cây chuối. Minh nhào tới bóp cổ, đè sấp chị Lan xuống làm gãy cây chuối, chị Lan chống cự, nằm ngửa lại. Minh ngồi lên bụng và tiếp tục bóp cổ chị Lan, hai tay chị Lan cào, cấu và bấu vào hai vành tai của Minh. Minh bóp cổ chị Lan mạnh hơn đến lúc không còn thấy chị Lan phản kháng. Tại Cơ quan điều tra, Huỳnh Văn Minh khai đã giao cấu với chị Lan nhưng tại phiên Toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm bị cáo khai y đã cởi quần chị Lan nhưng không giao cấu vì thấy chị Lan đã chết. Sau đó Minh kéo xác chị Lan đến mé mương giáp bờ đê sông rồi lật úp xác chị Lan xuống mương, nước dưới mương chỉ ngập đến đầu gối, rồi quay lại lấy dao và đèn pin ra về. Trong lúc lấy dao và đèn pin Minh để lại nhiều vết chân dính bùn ở mền và bộ ván nhà chị Lan.
Tại Biên bản giám định pháp y số 53GĐ/97 ngày 14-06-1997 Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉnh Bến Tre kết luận: Nạn nhân Nguyễn Thị Ngọc Lan bị chẹn cổ gây ngạt dẫn đến tử vong.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/HSST ngày 05-08- 1997 Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre áp dụng điểm a khoản 1 Điều 101; khoản 1 Điều 112; Điều 15; Điều 41 ; Điều 34 Bộ luật Hình sự; các Điều 609, 614, 616 Bộ 1uật Dân sự, phạt Huỳnh Văn Minh tử hình về tội giết người, 3 năm tù về tội hiếp dâm; tổng hợp hình phạt của cả hai tội là tử hình; buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn Hiệp (chồng nạn nhân) 10.944.000 đồng và cấp dưỡng nuôi 3 con của người bị hại mỗi cháu 20kg gạo/tháng đến khi tròn 18 tuổi.
Ngày 08-08-1997 Huỳnh Văn Minh kháng cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm hình phạt.
Ngày 19-08-1997 anh Nguyễn Văn Hiệp (chồng nạn nhân) kháng cáo đề nghị tăng bồi thường.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 2273/HSPT ngày 21-11-1997 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt đối với Huỳnh Văn Minh; buộc bị cáo bồi thường cho gia đình nạn nhân 40.000.000 đồng.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 51/KSXXHS ngày 11-07-1998 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại với lý do: những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở kết luận Huỳnh Văn Minh phạm tội giết người và hiếp dâm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số18/UBTP-HS ngày 08-04-1999 Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự phúc thẩm số 2273/HSPT ngày 21-11- 1997 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với Huỳnh Văn Minh.
Ngày 31-08-200l Chánh án Toà án nhân dân tối cao có Quyết định không kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (số 125/TK) đối với Huỳnh Văn Minh.
Ngày 04-10-2001 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cũng có Quyết định không kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (số 130/KSXXHS) đối với Huỳnh Văn Minh.
Sau khi có các quyết định nói trên, gia đình bị cáo có nhiều đơn khiếu nại, một số đại biểu Quốc hội và Lãnh đạo một số cơ quan chức năng cũng có văn bản đề nghị Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét lại vụ án này.
Tại Quyết định kháng nghị số35/HS-TK ngày 18-08-2003 Chánh án Toà án nhân nhân tối cao rút Quyết định không kháng nghị số 125/TK ngày 31-08-2001 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm giảm hình phạt cho Huỳnh Văn Minh xuống tù chung thân.
Tại phiên Toà giám đốc thẩm, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã rút Quyết định không kháng nghị số 130/KSXXHS ngày 04-10-2001 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là giảm hình phạt cho Huỳnh Văn Minh xuống tù chung thân về tội giết người.
XÉT THẤY:
Toà án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm kết án Huỳnh Văn Minh về tội giết người và hiếp dâm là có căn cứ, không oan.
Quá trình điều tra, tại phiên Toà sơ thẩm và trong đơn kháng cáo, Huỳnh Văn Minh đều khai nhận tội. Vụ án xảy ra trong đêm tối, ở chỗ vắng người, xa khu dân cư, không có người làm chứng trực tiếp, việc điều tra thu thập, bảo quản chứng cứ và dấu vết ở hiện trường vụ án còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, nhưng sau khi bị bắt Huỳnh Văn Minh đã khai báo rõ ràng, đầy đủ về hành vi phạm tội của mình; khi Cơ quan điều tra dựng lại hiện trường vụ án Huỳnh Văn Minh đã diễn lại Toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội và hành vi của Minh phù hợp với hiện trường và các chứng cứ khác. Chính vì vậy, trong vụ án này lời khai nhận tội rõ ràng, đầy đủ của Huỳnh Văn Minh tại Cơ quan điều tra và tại phiên Toà sơ thẩm là căn cứ rất quan trọng, kết hợp với các chứng cứ khác có trong vụ án để các cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét và đánh giá đầy đủ về tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo và trong phần quyết định của bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Văn Minh là chưa đúng pháp luật. Đồng thời bản án của Toà án cấp phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng chưa phát hiện sai sót này của bản án sơ thẩm.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà Huỳnh Văn Minh chối tội tại phiên Toà phúc thẩm, tuy nhiên lời chối tội của Minh không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, không đủ căn cứ để phủ định việc Minh nhận tội đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cho nên Toà án các cấp đã kết án Minh về tội giết người và hiếp dâm là đúng.
Trong vụ án này hành vi phạm tội giết người của bị cáo là bột phát, không có dự mưu trước, khi chị Lan bị chết bị cáo đã không thực hiện đến cùng hành vi hiếp dâm; về nhân thân của bị cáo: trước khi phạm tội bị cáo Huỳnh Văn Minh chưa có sai phạm gì, còn có khả năng cải tạo; đồng thời kết hợp với chính sách hình sự nhân đạo và yêu cầu áp dụng hình phạt tử hình trong tình hình hiện nay, Hội đồng Thẩm phán xét thấy có thể giảm hình phạt xuống tù chung thân cho bị cáo về tội giết người.
Vì các lẽ trên và căn cứ vào Điều 254, Điều 257 Bộ luật Tố tụng Hình sự,
QUYẾT ĐỊNH :
1. Sửa Quyết định giám đốc thẩm số 18/UBTP -HS ngày 08-04-1999 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đối với Huỳnh Văn Minh như sau:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 101 ; khoản 1 Điều 112; Điều l5; Điều 38; Điều 41 Bộ luật Hình sự 1985.
Phạt Huỳnh Văn Minh tù chung thân về tội giết người, 03 năm tù về tội hiếp dâm. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tù chung thân.
2. Các quyết định khác không bị kháng nghị giám đốc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Lý do sửa Quyết định giám đốc thẩm:
- Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ về tình tiết giảm nhẹ cho Huỳnh Văn Minh trong việc đã khai nhận rõ ràng và đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Đồng thời Bản án của Toà án cấp phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng chưa phát hiện ra sai sót này của Bản án sơ thẩm.
- Hành vi phạm tội giết người của Huỳnh Văn Minh là bột phát, không có dự mưu trước, đồng thời, bị cáo còn có khả năng cải tạo.
- Kết hợp với chính sách hình sự nhân đạo và yêu cầu áp dụng hình phạt tử hình trong tình hình hiện nay.