Quyết định số 02/2003/hđtp-ds ngày 25-02-2003 về vụ án ly hôn

Chủ đề   RSS   
  • #264621 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định số 02/2003/hđtp-ds ngày 25-02-2003 về vụ án ly hôn

    Số hiệu

    02/2003/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định số02/2003/hđtp-ds ngày 25-02-2003 về vụ án ly hôn

    Ngày ban hành

    25/02/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ02/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2003
    VỀ VỤ ÁN LY HÔN

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    .......................

    Tại phiên toà ngày 25-02-2003, xét xử giám đốc thẩm vụ án ly hôn giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:Chị Trương Thị Bạch Tuyết, sinh năm 1965.

    Bị đơn: Anh Ngô Thanh Long, sinh năm 1962.

    Cùng trú tại số 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

     

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1.  Bà Võ Thị Bảy và ông Trương Văn Huyện, trú tại Australia (Úc).

    2. Bà Ngô Thị Hảo trú tại số 10, ấp Đông Thịnh 2, Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang.

    3. Bà Trần Thị Liên, trú tại số 23 Huỳnh Văn Hay, Mỹ Long, Long Xuyên, An Giang.

    4. Bà Lê Thị Kim Ngân, trú tại số 39 Ngô Gia Tự, phường 2, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

    5. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ, trú tại số 90/2A Trần Hưng Đạo, Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang.

    6. Bà Ngô Thị Kim Chi, trú tại số 275 Ngô Gia Tự, phường 3, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh.

    7. Ông Chung Tô Hà, trú tại số 21 Phạm Hữu Trí, phường 12, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    8. Anh Dư Tiểu Luân, trú tại số 7 Huỳnh Thị Hưởng, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, An Giang.

    9. Bà Lê Thị Thái, trú tại số 52 Trần Khánh Dư, phường Mỹ Xuyên, thành phố Long Xuyên, An Giang.

    10. Anh Trương Thanh Bình đại diện Công ty TNHH Vạn Thành, 26 Hai Bà Trưng, Mỹ Long, Long Xuyên, An Giang.

     

    NHẬN THẤY:

    Chị Trương Thị Bạch Tuyết và anh Ngô Thanh Long kết hôn năm 1984.Năm 1999, anh chị mâu thuẫn trầm trọng. Ngày 20-07-1999, chị Tuyết xin được ly hôn anh Long.

    Anh chị có 3 con chung: Ngô Thanh Lân sinh năm 1985;Ngô Thanh Huy sinh năm 1991; Ngô Tiến Phụng sinh năm 1993.

    Tài sản chung anh chị khai thống nhất gồm có: 1 xe Hon da 50, 1 xe Wave, 1 xe Dream, 1 máy hát đĩa... có tổng giá trị 42.470.000đ (anh Long quản lý 2 xe máy giá trị 30 triệu, còn lại chị Tuyết quản lý).

    Anh Long khai: tài sản chung vợ chồng còn có 1 căn nhà 16 Phan Đình Phùng B có nguồn gốc của cha mẹ vợ khi xuất cảnh vừa bán, vừa cho chung vợ chồng (có nhận 205 triệu của vợ chồng), 1 xe Cúp 70, 1 tivi 21 inch, 1tivi 17 inch, 2 thùng loa, 1 Amply, 1 đầu máy vi deo V8, 1 dàn Karaoke, 1 đầu máy Video Hifi, 1 bàn tủ thờ, 1 bộ salon gỗ cẩm lai, 1 giường hộp gỗ, 1 tủ kiếng, 1 tủ đựng quần áo 5 ngăn, 1 máy may, 1 tủ kiếng để ly. Năm 1993, vợ chồng có cho cha vợ mượn 84 triệu để đầu tư cho em vợ là Trương Tấn Chính (BL 131). Tiền hụi còn 358 triệu, tiền mặt ở tủ còn 22.500.000 đồng, hàng hoá còn tồn lại trị giá 396.514.350 đồng, số tiền cho mượn 465 triệu (BL 253), vợ chồng nợ tổng số 576 triệu đồng (BL 130).

    Chị Tuyết khai: nhà 16 Phan Đình Phùng B của cha mẹ chị (ông Huyện, bà Bảy) cho riêng chị năm 1991, giấy tờ sở hữu nhà đứng tên chị, không phải tài sản chung của vợ chồng. Các tài sản xe Cúp 70, tivi... là của cha mẹ chị. Cha mẹ chị không nợ vợ chồng, tiền hụi chị hốt đã trả cho tiệm Mỹ Hoa 40 triệu, còn lại đã trả nợ cho các chủ hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, chi xài trong gia đình, tiền hụi nọ đóng hụi kia và lấy cả tiền hàng đóng hụi, hiện tiền hụi chỉ còn thực tế khoảng 100 triệu (BL 204, 161). Đối với số nợ 576 triệu đồng do anh Long khai, chị không biết; hàng tồn kho không phải 396 triệu, tiền vợ chồng cho mượn đề nghị tách ra giải quyết thành vụ án khác (BL 203, 248). Vợ chồng có nợ bà Trần Liên nhiều lần bằng 200 triệu.

     

    Tại Bản án sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001, Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

     

    - Về hôn nhân: Chị Trương Thị Bạch Tuyết được ly hôn với anh Ngô Thanh Long.

     

    - Về con chung: Giao cháu Ngô Thanh Lân sinh năm 1985; Ngô Thanh Huy sinh năm 1991 và Ngô Tiến Phụng sinh năm 1993 cho chị Trương Thị Bạch Tuyết được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục; anh Long không phải cấp dưỡng nuôi con; chị Tuyết phải tạo điều kiện cho anh Long tới thăm và chăm sóc, giáo dục con.

     

    Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định.

     

    - Về tài sản:

     

    + Chị Tuyết được sở hữu lầu 1, lầu 2, tầng mái của căn nhà số 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long giá trị 133.064.790đ, số tiền 184.000.000đ (đưa ông Huyện, bà Bảy và anh Chính), hàng tồn kho 20.688.000đ, tiền mặt hốt hụi 690.314.000đ và18.000.000đ (hụi còn sống gửi Diễm Trang), chiếc cúp 70 trị giá 3.000.000đ, 14 loại tài sản trang trí nội thất trị giá 12.470.000đ (01 máy nước nóng, tủ lạnh nhỏ, 01 máy hát đĩa 03 đĩa, 01 bàn phấn, 01 giường ngủ hộp loại Si men, 01 bàn bi ro, 02 máy may công nghiệp Misumisi, 01 máy se lai, vắt sổ; 01 quạt đứng, máy lạnh, 02 ổn áp Lioa, 01 máy hát đĩa bộ AIWA (Tuyết tự bán), 01 giường sắt 02 tầng, 01 quạt trần và xe cúp 50). Tổng cộng 1.061.536.790đ.

     

    - Anh Long được sở hữu số tiền bán 02 chiếc xe Dream và Wave Nhật 30.000.000đ.

     

    * Về nợ: Chị Tuyết phải chịu trách nhiệm trả nợ chung gồm:

     

     

     

    1. Bà Lê Thị Kim Ngân (Đại diện cho tiệm Mỹ Hoa)

     

    61.480.000 đ

     

    2. Ông Chung Tô Hà (Anh Tân)

     

    21.769.000 đ

     

    3. Bà Lê Thị Thái

     

    3.587.000 đ

     

    4. Anh Trương Thanh Bình (Đ D CN Công ty Vạn Thành)

     

    15.314.000đ

     

    5. Bà Ngô Thị Hảo

     

    200.000.000đ

     

    6. Bà Trần Liên

     

    216.750.000đ

     

    7. Bà Nguyễn Thị Kim Chi

     

    50.000.000 đ

     

    8. Anh Dư Tiểu Luân

     

    30.000.000 đ

     

    9. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ

     

    50.000.000 đ

     

    10. Bà Đinh Thị Hai

     

    50.000.000 đ

     

    Tổng cộng:

     

    698.900.000đ

     

     

     

    - Chị Tuyết có trách nhiệm hoàn giá trị chênh lệch tài sản của anh Long 166.318.000đ

     

    - Buộc ông Trương Văn Huyện và bà Võ Thị Bảy phải có trách nhiệm hoàn cho chị Tuyết 100.000.000đ.

     

    - Bà Hảo có trách nhiệm giao trả toàn bộ giấy tờ nhà số 16 Phan Đình Phùng B cho chị Trương Thị Bạch Tuyết khi nhận được tiền.

     

    Về án phí:

     

    - Chị Tuyết phải chịu 50.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm và 4.426.000đ án phí dân sự sơ thẩm (được trừ vào 50.000đ tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 06878 ngày 09-04-2000).

     

    - Anh Long phải chịu 8.852.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

     

    Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thì hành án chưa trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

     

    Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

     

    Riêng bà Ngân, ông Hà, bà Chi, bà Hai, ông Huyện, bà Bảy có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

    Ngày 25-11-2001, anh Ngô Thanh Long có đơn kháng cáo: yêu cầu được chia đôi căn nhà 16 Phan Đình Phùng B; hàng tồn kho có giá trị 396 triệu mà Toà chỉ tính có hơn 20 triệu là không đúng; số tiền vợ chồng cho vay trên 460 triệu đồng, chị Tuyết đã đi thu hồi nợ thì chị Tuyết phải chịu trách nhiệm; tiền hàng hoá trị giá 186 triệu đồng, chứ không phải chỉ có hơn 13 triệu đồng.

    Ngày 27-11-2001,chị Trương Thị Bạch Tuyết có đơn kháng cáo: các khoản nợ anh Long khai là nợ giả do anh Long tạo ra để chiếm đoạt tài sản của chị, chị không biết các khoản nợ này; yêu cầu giải quyết luôn cả các khoản nợ của vợ chồng do mua hàng ở thành phố Hồ Chí Minh; khoản tiền chơi hụi chỉ có 100 triệu là tiền bán hàng (vì chơi mãn hụi trước mới tham gia vào dây hụi sau), án sơ thẩm buộc chị chịu trách nhiệm 750 triệu tiền hụi là không đúng; tiền vợ chồng đã cho cha mẹ chị không phải tiền cho mượn; hàng hoá tồn kho để ở nhà 16 Phan Đình Phùng anh Long đã lấy hết vào đêm ngày 11-10-2001 (BL 310).

     

    Tại Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

     

    Căn cứ Điều 40, Điều 42, Điều 45 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986; Khoản 1 Điều 69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tuyên xử về phần tài sản:

     

    - Chị Tuyết được sở hữu thêm lầu 1, lầu 2, tầng mái của căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long giá trị 133.064.790đ; 184.000.000đ tiền cho ông Huyện, bà Bảy và anh Chính mượn; hàng tồn kho trị giá 20.688.000đ; tiền mặt đã hốt hụi 690.314.000đ và 18.000.000đ hụi sống còn gửi Diễm Trang, chiếc cúp 70cc trị giá 3.000.000đ; 14 loại tài sản trang trí nội thất trị giá 12.470.000đ. Tổng cộng giá trị tài sản chị Tuyết nhận 1.061.536.790đ.

     

    Anh Long được sở hữu 2 xe máy (1 Dream và 1 Wave Nhật) trị giá 30.000.000đ.

     

    - Về nợ chị Tuyết phải chịu trách nhiệm trả nợ chung gồm:

     

    1. Bà Lê Thị Kim Ngân (Đại diện cho tiệm Mỹ Hoa)

     

    61.480.000đ

     

    2. Ông Chung Tô Hà (Anh Tân)

     

    21.769.000đ

     

    3. Bà Lê Thị Thái

     

    3.587.000 đ

     

    4. Anh Trương Thanh Bình (đại diện Công ty Vạn Thành)

     

    15.314.000đ

     

    5. Bà Ngô Thị Hảo

     

    200.000.000đ

     

    6. Bà Trần Liên

     

    216.750.000đ

     

    7. Bà Nguyễn Thị Kim Chi

     

    50.000.000 đ

     

    8. Anh Dư Tiểu Luân

     

    30.000.000 đ

     

    9. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ

     

    50.000.000 đ

     

    10. Bà Đinh Thị Hai

     

    50.000.000 đ

     

    Tổng cộng:

     

    698.900.000đ

     

    - Chị Tuyết có nghĩa vụ hoàn lại giá trị chênh lệch về tài sản cho anh Long: 166.318.000đ.

     

    - Buộc ông Trương Văn Huyện và bà Võ Thị Bảy có trách nhiệm hoàn lại cho chị Tuyết 100.000.000đ.

     

    - Bà Ngô Thị Hảo có nghĩa vụ giao toàn bộ giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên cho chị Trương Thị Bạch Tuyết khi nhận được tiền.

     

    Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

     

    Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

     

    - Chị Tuyết chịu 50.000đ án phí hôn nhân gia đình 4.426.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được trừ 50.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 06878 ngày 09-04-2000.

     

    - Anh Long chịu 8.825.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm.

     

    Ngày 09-05-2002, chị Tuyết có đơn khiếu nại: phần nợ anh Long tự kê khai 380 triệu là không có thật; tiền hụi thực tế sau khi trừ tiền chầu hụi chỉ còn 190.314.000đ; vợ chồng còn nợ cha mẹ 8.734.000 đồng chứ không phải cha mẹ nợ vợ chồng 84 triệu; phần vợ chồng nợ mua hàng 259.271.000 đồng mà Toà chỉ mới giải quyết 102.150.000 đồng là không đúng.

    Tại Quyết định số94/KN-DS ngày 11-11-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với nhận định:

    1. Về tiền hốt hụi 690.314.000đ:

    Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Tuyết luôn cho rằng: Tiền góp hụi là chị lấy ra từ khoản tiền bán hàng, sau khi hốt được hụi chị dùng tiền đó để mua hàng và chi phí cho sinh hoạt gia đình, số tiền hụi hiện chỉ còn lại 100 triệu. Lời khai của chị Tuyết phù hợp lời khai của chị Kim Ngân chủ tiệm Mỹ Hoa khai ngày 09-08-2001 (BL 187): từ ngày 17-02-2000 đến ngày 08-05-2001, chị Tuyết có trả cho chị 1.041.827.000đ, hơn nữa, tại phiên toà sơ thẩm ngày 13-1l-2001 anh Long đã thừa nhận tiền hụi theo sổ sách chỉ còn 358 triệu, do vậy, việc Toà hai cấp xử công nhận số tiền 690.314.000đ tiền hốt hụi là tài sản chung của vợ chồng anh Long, chị Tuyết là không thoả đáng.

    2. Số tiền anh Long tự vay của 5 đối tượng có giá trị 380 triệu:

    Chị Tuyết không thừa nhận khoản tiền này vì khi anh Long vay chị không được biết.

    Anh Long khai vay số tiền trên để trả nợ một số người như: tiệm Mỹ Hoa (chị Kim Ngân) ngày 05-11-1997: 145.000.000đ, Kim Đan... nhưng Toà án không xác minh việc này, chị Kim Ngân chủ tiệm Mỹ Hoa tại biên bản ghi lời khai ngày 08-05-2001 (BL 76), ngày 09-08-2001 (BL 187) chỉ thừa nhận vào đầu năm 2001 có nhận của chị Tuyết 145 triệu đồng chứ không phải nhận của anh Long. Trong 380 triệu đồng trên, anh Long khai vay của bà Hảo 200 triệu đồng vào năm 1997 và có thế chấp cho bà Hảo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 173 ngày 02-04-1991, nhưng tại đơn khởi kiện ngày 17-05-2001, bà Hảo đã cung cấp cho Toà án bản sao giấy chứng nhận 173 (không có công chứng xác nhận) (BL 64), tại phiên toà sơ thẩm, bà Hảo khai thế chấp bản chính nhưng bà Hảo không xuất trình được tài liệu này. Tại BL 138 có giấy chứng nhận số 173 đã được công chứng ngày 18-06-1998 sau khi anh Long vay tiền của bà Hảo; nhưng không xác định thu thập của ai. Quá trình giải quyết vụ án chị Tuyết cho rằng giấy tờ nhà đã bị anh Long lấy đi thế chấp ở chỗ nào chị không biết, nhưng tại đơn khiếu nại ngày 09-05-2002, chị Tuyết trình bày, anh Long không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà chính, giấy chứng nhận (số 173) bản chính bố chị vẫn giữ và chị sao giấy chứng nhận số 173 có công chứng của Phòng Công chứng nhà nước tỉnh An Giang ngày 07-06-2002 để làm bằng. Hơn nữa, tại biên bản ngày 18-04-2001, anh Long khai: số nợ chung của vợ chồng chỉ khoảng 250 triệu đồng. Vì vậy, Toà án tuyên khoản nợ trên là khoản nợ chung của vợ chồng và buộc chị Tuyết phải trả là chưa có cơ sở.

    3. Về số tiền 84 triệu đồng cho bố mẹ chị Tuyết vay:

    Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Tuyết thừa nhận năm 1993, vợ chồng chị có cho bố mẹ chị vay tiền để cho em chị là Chính làm lò đường, nhưng hiện nay, bố mẹ chị đã trả hết. Sau khi xét xử sơ thẩm, chị đã xuất trình giấy thanh toán nợ giữa bố mẹ chị với anh Long, trong khi đó, vợ chồng chị còn nợ lại bố mẹ chị 8.734.000 đồng. Anh Long thừa nhận giấy thanh toán này do anh viết. Vì vậy, Toà án coi số tiền này bố mẹ chị Tuyết chưa trả và buộc chị Tuyết trả 1à chưa đúng.

    4. Về khoản tiền 157.121.200 đồng nợ của 14 đối tượng: Toà án cấp phúc thẩm cho rằng, anh Long cùng chị Tuyết không cung cấp địa chỉ cũng như các đương sự không có yêu cầu là không đúng, vì trong đơn đề nghị hoãn phiên toà ngày 06-08-2001 của anh Long có kèm theo địa chỉ của 8 chủ nợ. Toà án hai cấp không tiến hành điều tra xác minh là thiếu sót, việc tách số tiền trên ra thành một vụ án khác sẽ không giải quyết triệt để vụ án.

    Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: huỷ phần quyết định về phân chia tài sản của Bản án dân sự sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001của Toà án nhân dân tỉnh An Giang và Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên yêu cầu kháng nghị nêu trên.

     

    XÉT THẤY:

    Về quan hệ hôn nhân và giao nuôi con đã được Toà án cấp sơ thẩm giải quyết, các đương sự không có kháng cáo; phần này đã có hiệu lực.

    Về tài sản: căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên có nguồn gốc của cha mẹ chị Tuyết (ông Huyện, bà Bảy) cho riêng chị Tuyết (căn cứ vào đơn xin cho nhà ngày 19-10-1985 và giấy uỷ quyền ngày 22-03-1991). Trong thời gian chung sống vợ chồng anh Long, chị Tuyết đã sửa chữa lại căn nhà. Toà án cấp sơ, phúc thẩm xác định tài sản chung vợ chồng gồm giá trị phần sửa chữa căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, l xe cúp 50, l xe DreamII, 1 xe Wave Nhật, 14 loại tài sản nội thất, hàng tồn kho có giá trị 199.222,790đ là có căn cứ (hiện chị Tuyết, anh Long không có khiếu nại).

    Về tiền hốt hụi: Các đương sự đều công nhận vợ chồng có chơi hụi, chị Tuyết là người hốt hụi.

    Tại BL 130 và tại phiên toà sơ thẩm ngày 11-09-2001, anh Long khai: số tiền hụi còn 358 triệu nhưng anh không xuất trình sổ sách. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, anh Long khai: chị Tuyết dùng tiền hụi để trả nợ và làm việc khác (BL 335, 336).

    Chị Tuyết khai: tiền chơi hụi lấy từ tiền bán hàng, tiền hốt hụi được trả nợ cho các chủ nợ ở thành phố Hồ Chí Minh; có sổ sách ghi việc hốt hụi do anh Long giữ, chị không nhớ hốt được bao nhiêu tiền (BL 251, 250). Tại lời khai ngày 25-09-2001, chị Tuyết khai, chị chơi rất nhiều dây hụi, chị hốt hụi nhiều lần (BL 202, 203). Sau khi Toà án cấp sơ thẩm xác định số tiền hụi chị Tuyết đã hốt là 690.314.000 đồng, chị Tuyết kháng cáo về tiền hụi và tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết khai: tiền hụi chỉ còn khoảng hơn 100 triệu, hốt hụi này mới chơi hụi kia, sổ sách chơi hụi do anh Long giữ (BL 335, 337). Tại đơn khiếu nại ngày 09-05-2002 của chị Tuyết gửi Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chị Tuyết khai: thực tế, sau khi hốt hụi được tổng số tiền 690.314.000 đồng chị phải chầu hụi chết 500 triệu đồng, thực tế chỉ còn 190.314.000đồng.

    Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã không yêu cầu anh Long phải cung cấp cho Toà án sổ sách ghi việc chơi hụi, không đối chiếu sổ sách và đối chất giữa các đương sự mà chỉ căn cứ vào lời khai ngày 25-09-2001 của chị Tuyết là hốt hụi nhiều lần, rồi cộng tổng số những lần chị khai hốt hụi thành số tiền 690.314.000 đồng để quy trách nhiệm cho chị Tuyết trong khi chị còn có các lời khai khác về nguồn tiền dùng chơi hụi và sau khi hốt hụi đã chi dùng một phần cho gia đình, trả nợ, chầu hụi chết... Do đó, kết luận của cấp sơ thẩm và phúc thẩm về khoản tiền này là chưa có căn cứ. Vì vậy, cần phải tiến hành điều tra thêm, yêu cầu anh Long xuất trình sổ chơi hụi, đối chất giữa các đương sự về số tiền thu được, tiền đóng hụi lấy từ đâu ra, số tiền chi dùng sau khi hốt hụi, vợ chồng tham gia các dây hụi cùng một thời gian hay kết thúc dây hụi này mới tham gia vào dây hụi khác, yêu cầu chị Tuyết phải giải trình về số tiền 500 triệu đồng chị đóng hụi chết cho ai? Thời gian nào?...

    Về số tiền anh Long vay 380 triệu đồng của 5 người:

    Anh Long khai ngày 18-04-2000: vợ chồng buôn bán hiện còn nợ 250 triệu, nhưng cũng không liệt kê vay của ai, số tiền bao nhiêu, thời gian nào (BL 08). Tại tờ tường trình ngày 16-03-2001, anh Long khai nợ của nhiều người, trong đó, có nợ bà Ngô Thị Hảo 200 triệu, nợ bà Nguyễn Thị Kim Chi 50 triệu, bà Đinh Thị Hai 50 triệu đồng, anh Dư Tiểu Luân 30 triệu (không thấy kê khai nợ chị Bùi Thị Thanh Thuỳ BL 130),nhưng tại lời khai ngày 09-07-2001, anh Long khai: vợ chồng nợ 380 triệu đồng của 5 người cụ thể:

    + Vay của bà Ngô Thị Hảo 2 lần, tổng số 200 triệu, có thế chấp giấy tờ nhà 61 Phan Đình Phùng B. Vay tiền để trả nợ tiệm Mỹ Hoa 145 triệu ngày 05-11-1997 và 88 triệu ngày 27-07-1997.

    + Vay bà Đinh Thị Hai 50 triệu ngày 09-05-1998 để trả nợ cho bà Hoa ở thành phố.

    + Vay chị Bùi Thị Thanh Thuỳ 50 triệu đồng ngày 08-12-2000 để trả cho ông Sơn ở phường Mỹ Xuyên.

    + Vay bà Nguyễn Thị Kim Chi 50 triệu ngày 20-04-1997 để trả nợ cho tiệm Mỹ Hoa ngày 22-04-1997.

    + Vay anh Dư Tiểu Luân 30 triệu đồng ngày 15-02-1999 để trả cho tiệm Mỹ Hoa, chị Hoa Vải ... (BL 79).

    Anh Long xuất trình 1 cuốn sổ mua hàng, trong đó có ghi các khoản nợ của 5 người trên bằng 380 triệu (BL 85). Anh Long cho rằng, việc anh vay mượn chị Tuyết có biết, chỉ mình anh ký vào giấy nhận nợ, vay để phục vụ việc buôn bán nên vợ chồng cùng phải trả.

    Chị Tuyết khai: việc buôn bán do anh Long quản lý, chị không biết (BL 10, 155). Tại lời khai ngày 07-04-2000, chị Tuyết khai, anh Long có báo cho chị, hiện vợ chồng còn nợ 250 triệu và một vài khoản nợ ở thành phố (BL 10). Tại phiên toà sơ thẩm ngày 13-11-2001, chị Tuyết khai, nợ chung vợ chồng cùng trả (BL 231). Sau khi Toà án cấp sơ thẩm công nhận vợ chồng nợ 380 triệu của 5 người trên, chị Tuyết kháng cáo cho rằng, các khoản nợ do anh Long vay để tiêu xài riêng (BL 312). Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết công nhận sổ nợ do anh Long xuất trình (BL 338). Tại đơn khiếu nại gửi Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ngày 09-05-2002, chị Tuyết không công nhận các khoản nợ mà anh Long đã kê khai, đặc biệt là, không có nợ bà Hảo (dì của anh Long) 200 triệu, không thế chấp giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B cho bà Hảo. Những lời khai trên của các đương sự còn có nhiều mâu thuẫn, chưa được hỏi, đối chất làm rõ: vì sao lời khai ban đầu của anh Long là vợ chồng chỉ nợ 250 triệu chứ không phải 380 triệu? Số nợ mà anh Long khai vay của chị Thuỳ ngày 08-12-2000 (chị Tuyết bắt đầu quản lý cửa hàng từ tháng 04-2000) có đúng để trả cho anh Sơn hay không ? Ai vay và vay anh Sơn từ thời gian nào, dùng vào mục đích gì ? Trong hồ sơ vụ án có bản phô tô tờ giấy ghi nợ do anh Long cung cấp nhưng không rõ có đúng là phô tô từ “cuốn sổ” mà chị Tuyết công nhận tại phiên toà phúc thẩm hay không ? Mặt khác, “cuốn sổ” đó ghi mâu thuẫn về thời gian: ngày 15-02-1999 vay anh Luân 30 triệu ghi trước, ngày 09-05-1998 vay bà Hai 50 triệu lại ghi sau (BL 85) cần phải điều tra làm rõ. Bên cạnh đó, cũng cần phải điều tra xem, ai là người đang giữ các giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B: bố mẹ của chị Tuyết hay bà Hảo...Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào thời điểm vay, anh Long là người quản lý cửa hàng, các chủ nợ đều xác nhận có việc vay và trong thời kỳ hôn nhân tồn tại anh Long không hề mua sắm tài sản riêng, để xác định khoản nợ do anh Long khai 380 triệu đồng là nợ chung vợ chồng, trong khi còn hàng loạt vấn đề mâu thuẫn chưa được làm rõ là chưa có căn cứ.

    Về số tiền 84 triệu đồng mà vợ chồng cho bố mẹ chị Tuyết vay: Anh Long khai, năm 1993, cha mẹ vợ (ông Huyện, bà Bảy) có vay vợ chồng 84 triệu để đầu tư làm lò đường cho em vợ là Trương Tấn Chính (BL 131, 332). Anh Long có xuất trình lá thư do ông Huyện gửi cho bà Ánh (con nuôi ông Huyện) năm 1994 có nội dung: ông Huyện nợ vợ chồng anh Long, chị Tuyết 84 triệu (BL 115).

    Theo chị Tuyết khai: ông Huyện, bà Bảy có vay vợ chồng 84 triệu đồng, nhưng đã trả xong (BL 202, 332). Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết xuất trình một tờ giấy mà chị cho rằng là giấy thanh toán nợ giữa ông Huyện, bà Bảy với vợ chồng nhưng nội dung không rõ (BL 328), còn trong kháng nghị của Viện kiểm sát thì cho rằng, giấy này thể hiện vợ chồng còn nợ bố mẹ chị Tuyết 8.734.000đ. Tại phiên toà phúc thẩm, Luật sư do chị Tuyết yêu cầu có hỏi anh Long : “giấy xuất trình của chị Tuyết là của anh phải không ?”, anh Long trả lời: “phải” nhưng không rõ giấy xuất trình của chị Tuyết có phải là giấy thanh toán nợ đó hay không và giấy thanh toán nợ đó có liên quan gì đến số tiền 84 triệu đồng mà ông Huyện, bà Bảy vay của vợ chồng được chị Tuyết thừa nhận? Mặt khác, Toà án cấp phúc thẩm xác định, ông Huyện, bà Bảy là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của vụ án, nhưng Toà án không hề lấy lời khai của ông Huyện, bà Bảy về số tiền 84 triệu và trong hồ sơ cũng không thể hiện việc ông Huyện, bà Bảy uỷ quyền cho ai tham gia tố tụng là vi phạm tố tụng. Vì vậy, cần phải lấy lời khai của ông Huyện, bà Bảy; đối chất giữa các đương sự về khoản nợ 84 triệu đồng, giấy thanh toán... để làm rõ về việc nợ nần giữa bà Bảy, ông Huyện với vợ chồng.

    Về khoản tiền vợ chồng nợ của 14 đối tượng khác: Chị Tuyết khai, vợ chồng nợ 259.271.200 đồng; anh Long khai vợ chồng chỉ nợ 171.250.000 đồng gồm tiệm Mỹ Hoa, tiệm Thanh Tuyền, chị Hoa Vải. Toà án cấp phúc thẩm mới buộc vợ chồng trả 102.150.000 đồng, còn lại 157.121.000 đồng, Toà án cấp phúc thẩm tách ra giải quyết thành vụ án khác khi có yêu cầu của các chủ nợ là chưa giải quyết triệt để vụ án. Vì vậy, cần phải lấy lời khai của các chủ nợ, nếu họ có yêu cầu đòi nợ vợ chồng thì Toà án cần giải quyết theo quy định của pháp luật.

    Những vấn đề nêu trên cần phải được điều tra, làm rõ. Do phần quyết định về tài sản của Bản án sơ thẩm, phúc thẩm cần phải xem xét lại nên phần án phí cũng cần điều chỉnh cho phù hợp.

     

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;

     

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ phần chia tài sản, phần án phí tài sản của Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang trong vụ án xin ly hôn có nguyên đơn là chị Trương Thị Bạch Tuyết và bị đơn là anh Ngô Thanh Long.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh An Giang điều tra, xét xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung. 

    Những vấn đề cần chú ý:

    Qua vụ án này cho thấy, khi giải quyết vụ án ly hôn có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, thì Toà án cần phải yêu cầu các bên chứng minh đầy đủ các vấn đề:

    - Tài sản chung của vợ chồng gồm có những loại gì và nguồn gốc? Tài sản riêng của vợ, của chồng và nguồn gốc?

    - Nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng? Còn nợ những ai? Việc vay tài sản nợ để làm gì? Nếu một người đứng tên vay thì tài sản được vay có dùng chung cho mục đích cuộc sống, kinh doanh của gia đình hay không?

    - Người nào là chủ nợ, người nào đang nợ vợ chồng? Họ có yêu cầu gì trong việc giải quyết vụ án ly hôn này?

    - Nếu các lời khai của vợ, chồng về tài sản có mâu thuẫn nhau thì cần phải đối chất, xác minh để có quyết định chính xác.

     

     
    3151 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận