Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa bà Trần Thị Kim Hoàng và anh Trần Minh Hải

Chủ đề   RSS   
  • #265489 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa bà Trần Thị Kim Hoàng và anh Trần Minh Hải

    Số hiệu

    28/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa bà Trần Thị Kim Hoàng và anh Trần Minh Hải

    Ngày ban hành

    09/07/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    Ngày 09 tháng 7 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim Hoàng, sinh năm 1942; trú tại: Nhà số 229/17 ấp Phước Lợi A, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    Bị đơn: Anh Trần Minh Hải, sinh năm 1973, trú tại: Nhà số 123/8 ấp Phước Ngươn A, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Anh Trần Minh Châu, sinh năm 1971; trú tại: Nhà số 123, ấp Phước Ngươn A, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    2. Bà Trần Thị Mẹo, sinh năm 1940;

    3 . Anh Huỳnh Bá Phước, sinh năm 1965;

    Anh Phước, bà Mẹo cùng trú tại ấp Phước Nguồn A, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    4. Ông Trần Minh Bửu (Peter Minh Tran), sinh năm 1951; trú tại: 1126-9th Ave Okaland CA.94604 USA.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện ngày 21/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Trần Thị Kim Hoàng trình bày: Cha mẹ của bà là cụ Trần Văn Hòa và cụ Phan Thị Hoa có 03 người con chung là bà Trần Thị Mẹo, ông Trần Minh Bửu (ông Bửu hiện sống tại Mỹ, có 02 người con là anh Trần Minh Châu, anh Trần Minh Hải) và bà. Sinh thời hai cụ tạo lập được khối tài sản bao gồm: 4.855m2 đất thổ vườn và 5 .200m2đất ruộng tại xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cụ Hòa chết năm 1992, cụ Hoa chết 2004, hai cụ đều không để lại di chúc. Trước khi chết vào năm 1986, cụ Hòa đã phân chia cho 03 người con, mỗi người l.000m2 đất vườn, chiều dài đất là 100m, ngang 10m giáp với đường đi, phần còn lại để làm hương hỏa; bà đã cho con trai của bà là anh Huỳnh Bá Phước xây dựng nhà ở từ năm 1989 trên phần đất được chia. Tuy nhiên, sau khi cụ Hòa chết, ngày 31-8-2000 cụ Hoa lập “Tờ phân chia đất cho các con”, nhưng việc phân chia của cụ Hoa không đúng vị trí đất cụ Hòa đã chia; cụ Hoa chia cho bà Trần Thị Mẹo l.000m2, anh Trần Minh Hải l.660m2, anh Trần Minh Châu 1.000m2 và bà được chia 1.000m2; riêng căn nhà nằm trên 195m2 đất Cụ Hoa giao cho bà Mẹo sử dụng thu hoa lợi để nuôi dưỡng cụ và thờ cúng sau khi cụ Hoa chết, khi bà Mẹo chết thì anh Hải sẽ được tiếp tục sử dụng. Bà không đồng ý với việc chia đất này của cụ Hoa nên đã khiếu nại yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết, nhưng bà Mẹo, anh Hải, anh Châu vẫn kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16-7-2001. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu được chia 1000m2 đất vườn theo như vị trí trước đây vụ Hòa đã chia cho bà, trên đất có nhà của anh Phước đang ở; đối với phần đất ruộng, bà yêu cầu chia làm 03 phần bằng nhau cho các người thừa kế của cụ Hòa, cụ Hoa.

    Bị đơn là anh Trần Minh Hải trình bày: Ngày 31/8/2000, cụ Hoa lập “Tờ phân chia đất cho các con” có chứng kiến của bà Mẹo và những người làm chứng khác, bà Hoàng cũng biết nhưng không đến. Do ông Bửu ở xa nên anh và anh Châu (là con của ông Bửu) được nhận phần đất của ông Bửu. Anh đã đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 16/7/2001 đối với 1.585m2 đất được chia. Đồng thời, anh đã làm nhà kiên cố trên đất nên anh không đồng ý theo yêu cầu của bà Hoàng. Đối với căn nhà do anh Phước (là con của bà Hoàng) xây dựng trên phần đất cụ Hoa đã chia cho anh, có nguồn gốc là do anh Phước xin cụ Hoa cho xây dựng nhà tạm để chứa giấy từ năm 1997, nên anh yêu cầu anh Phước di dời nhà về phần đất bà Hoàng được chia để trả đất cho anh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    - Anh Trần Minh Châu trình bày: Ngày 31-8-2000, cụ Hoa lập tờ phân chia đất cho các con, cháu, trong đó anh được chia l.005m2, anh đã kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 16-7-2001. Trên phần đất này anh đã bơm cát, san lấp mặt bằng trị giá 3.600.000 đồng và đã trồng cây trên đất. Do đó anh không đồng ý chia lại vị trí đất theo yêu cầu của bà Hoàng. Đối với phần đất ruộng, khi mẹ của anh là bà Lê Thị Mai ra ở riêng, bà Mai đã được cụ Hòa, cụ Hoa cho 2.773m2 đất ruộng. Năm 1978 bà Mai đưa đất vào Tập đoàn sản xuất năm 1986 Tập đoàn trả lại đất cho bà Mai canh tác. Năm 1992, bà Mai chết, anh tiếp tục sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 30-6-1995 đối với diện tích đất này, nên anh không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của bà Hoàng.

    - Bà Trần Thị Mẹo trình bày: Vào năm 1989, cụ Hòa đã cắt phần đất phía sau có mồ mả để làm đất hương hỏa, phần đất phía trước cụ Hòa chia làm 04 phần, mỗi phần có chiều ngang là 10m, phần của bà được chia nằm ở phía bên trái từ ngoài nhìn vào, phần của bà Hoàng nằm sát cạnh phần của bà, hai phần còn lại là của ông Bửu, anh Hải và anh Châu. Vào năm 2000, cụ Hoa làm giấy chia lại đất, bà có ký vào giấy này nhưng không rõ nội dung chia đất như thế nào vì bà không biết chữ, bà chỉ nghĩ là giấy đó sau này khi nào bà chết thì giao lại đất cho anh Hải. Do đó, bà yêu cầu chia lại đất theo ý chí của cụ Hòa vào năm 1989. Đối với 5.000m2 đất ruộng, cụ Hòa đã giao cho bà Lê Thị Mai 2.500m2 hiện tại do anh Châu sử dụng, còn lại 2.500m2 đất bà sử dụng, nhưng anh Hải lại được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất này là không đúng, bà yêu cầu chia toàn bộ 5.000m2 đất ruộng này làm 3 phần.

    - Anh Huỳnh Bá Phước trình bày: Năm 1989, cụ Hòa chia cho bà Hoàng 1.000m2 đất vườn, nhưng cụ Hòa, cụ Hoa vẫn hưởng hoa lợi. Năm 1992, cụ Hoa đồng ý cho anh làm nhà trên phần đất mà bà Hoàng đã được chia, hiện tại anh đang sử dụng 1.000m2 đất vườn nêu trên nên anh đề nghị được tiếp tục sử dụng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DSST ngày 23/3/2007, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:

    + Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo về việc yêu cầu chia thừa kế phần đất tại thửa 428 diện tích 2.640m2 - Lúa do anh Trần Minh Hải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 33777/QSDĐ ngày 16/7/2001. Anh Hải được quyền sử dụng diện tích nêu trên.

    + Buộc anh Trần Minh Hải phải hoàn trả cho bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo mỗi người có số tiền 9.900.000đ

    + Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo đòi chia phần đất do anh Trần Minh Châu đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: O0551/QSDĐ ngày 30/6/1995.

    + Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo đòi chia đất theo sơ đồ lược ghi do ông Trần Văn Hòa lập.

    + Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Kim Hoàng nhận phần đất do bà Phan Thị Hoa phân chia ngày 31/8/2000. Vị trí được phân chia theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 22/3/2007 của Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

    + Ghi nhận sự tự nguyện của anh Trần Minh Hải. bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo dành lối đi chung từ đường đai đến phần đất anh Trần Minh Châu chiều ngang 2m. (Kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 22/3/2007 của Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long).

    + Chấp nhận yêu cầu của anh Trần Minh Hải. Không chấp nhận yêu cầu của anh Huỳnh Bá Phước. Buộc anh Huỳnh Bá Phước phải di dời nhà và các tài sản khác thuộc quyền sở hữu của anh để trả lại quyền sử dụng đất cho anh Trần Minh Hải. (Kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 22/3/2007 của Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long).

    + Bà Trần Thi Kim Hoàng phải có nghĩa vụ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí đo đạc, định giá và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 02/4/2007, bà Trần Thị Kim Hoàng kháng cáo yêu cầu chia cho bà phần đất thổ cư mặt tiền ngang 10m, dài 100m, trên đất có căn nhà của Huỳnh Bá Phước; đối với phần đất ruộng yêu cầu giao cho bà Mẹo canh tác, nhưng trả giá trị cho bà và anh Hải.

    Ngày 03/4/2007, Huỳnh Bá Phước kháng cáo yêu cầu chia cho bà Hoàng phần đất có nhà anh đang ở, nếu phải di chuyển thì xin được lưu cư ít nhất là 06 tháng.

    Ngày 03/4/2007, bà Trần Thị Mẹo kháng cáo yêu cầu chia cho bà phần đất thổ cư ngang 10m, dài 100m, giáp với đất của bà Hoàng, bà xin nhận phần đất ruộng bà đang canh tác và thanh toán giá trị chênh lệch cho các thừa kế khác.

    Tại bản án phúc thẩm số 283/2007/DSPT ngày 31/8/2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành Phố Hồ Chí Minh quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị Kim Hoàng, bà Trần Thị Mẹo và anh Huỳnh Bá Phước, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 01/11/2007 bà Trần Thị Kim Hoàng khiếu nại không đồng ý với bản án phúc thẩm.

    Ngày 19/11/2007 bà Trần Thị Mẹo khiếu nại không đồng ý với bản án phúc thẩm.

    Tại Quyết định số429/2009/KN-DS ngày 17-8-2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 283/2007/DSPT ngày 31-8-2007 của Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DSST  ngày 23-3-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Diện tích đất tranh chấp (bao gồm 4.855m2 đất thổ vườn và 5.200m2 đất ruộng tại xã Phước Hậu, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) có nguồn gốc là của vợ chồng cụ Trần Văn Hòa và cụ Phan Thị Hoa tạo lập. Năm 1992 cụ Hòa chết, cụ Hoa tiếp tục quản lý sử dụng đất, ngày 16-11-2000 cụ Hoa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 4.855m2 đất vườn và 2.640m2 đất ruộng. Ngày 31-8-2000 cụ Hoa lập tờ phân chia đất thổ vườn cho các con, theo đó bà Mẹo được chia 1.000m2,bà Hoàng được chia 1.000m2, anh Trần Minh Hải được chia 1.660m2, anh Trần Minh Châu được chia 1.000m2, riêng căn nhà trên 195m2 đất cụ Hoa giao cho bà Mẹo sử dụng thu hoa lợi để nuôi dưỡng cụ khi còn sống và thờ cúng sau khi cụ chết, sau khi bà Mẹo chết thì anh Hải được tiếp tục sử dụng. Bà Hoàng không đồng ý với việc phân chia này nên đã khiếu nại yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết, nhưng đến ngày 12-10-2000, cụ Hoa vẫn làm thủ tục để bà Mẹo, anh Hải, anh Châu kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16-7-2001. Như vậy, việc cụ Hoa phân chia đất cho các con và cháu nhưng không có sự đồng ý của bà Hoàng (là một trong những người thừa kế của cụ Hòa) là không đúng; đồng thời Ủy ban nhân dân căn cứ vào sự phân chia này để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Mẹo, anh Hải, anh Châu, trong khi bà Hoàng tranh chấp là không đúng quy định của pháp luật.

    Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Hoàng cho rằng năm 1986 cụ Hòa có phân chia đất cho các con cháu (mỗi người được l.000m2, dài 100m, ngang 10m giáp với đường đi), đồng thời xuất trình văn bản số 06/CT.UBTX.88 ngày 09-01-1989 của Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Long có nội dung: “chấp thuận cho bà Trần Thị Kim Hoàng ngụ tại 229 tổ 7, ấp Phước Lợi A, xã Phước Hậu, thị xã Vĩnh Long được phép chuyển nhượng thành quả lao động và quyền sử dụng đất trên phần đất thửa số trích 88 loại đất quả, diện tích 1.000m2. Do ông Trần Văn Hòa ngụ tại ấp Phước Ngươn A, xã Phước Hậu, thị xã Vĩnh Long đứng tên canh tác. Bà Trần Thị Kim Hoàng được quyền sử dụng và canh tác phần đất nêu trên theo đúng quy định luật đất đai của Nhà nước đã ban hành”. Trong trường hợp này lẽ ra phải xác minh làm rõ về nguồn gốc của diện tích 1.000m2 đất nêu trên để xác định 1.000m2 đất này có phải là một phần trong 4.855mđất thổ vườn đang tranh chấp hay không?, có hay không việc cụ Hòa chia cho bà Hoàng diện tích đất như bà Hoàng khai và nếu có thì khi cụ Hòa cho bà Hoàng đất cụ Hoa có đồng ý hay không? Lý do bà Hoàng trực tiếp canh tác đất (theo sự phân chia của cụ Hòa) nhưng năm 2000 cụ Hoa vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với toàn bộ phần đất tranh chấp? Từ đó, mới có cơ sở để giải quyết vụ án.

    Đối với phần đất ruộng 5.200m2: có căn cứ xác định khi còn sống, cụ Hòa và cụ Hoa đã cho bà Lê Thị Mai (là vợ của ông Bửu) diện tích đất ruộng 2.773m2 và bà Mai để lại cho anh Châu sử dụng, nên diện tích đất ruộng của hai cụ chỉ còn 2.640m2. Sau khi cụ Hòa chết, cụ Hoa tiếp tục quản lý sử dụng và cho anh Hải sử dụng nhưng anh Hải lại đứng tên kê khai (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 16-7-2001) mà không được sự đồng ý của những người thừa kế của cụ Hòa cũng là không đúng.

    Mặt khác, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 31567/QSDĐ và số 31566/QSDĐ ngày 16-11-2000 của cụ Hoa đối với 4.855m2đất vườn và 2.640m2 đất ruộng đều ghi là cấp cho “Hộ Phan Thị Hoa”. Do đó, trong trường hợp này cũng cần xác minh tại cơ quan có thẩm quyền quản lý đất để làm rõ việc cấp đất cho hộ gia đình cụ Hoa có đúng trình tự thủ tục hay không? Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thì hộ gia đình cụ Hoa gồm có những ai đang canh tác sử dụng đất, từ đó mới đủ căn cứ xác định diện tích đất tranh chấp là tài sản của cụ Hòa, cụ Hoa hay là tài sản chung của những người trong hộ gia đình cụ Hoa để làm cơ sở giải quyết vụ án.

    Ngoài ra, cũng cần xem xét về thời hiệu khởi kiện đối với phần tài sản của cụ Hòa, nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết thì cần xem xét về điều kiện chia tài sản chung cho các đương sự theo hướng dẫn tại Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

    Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ những vấn đề nêu trên nhưng đã giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 283/2007/DSPT ngày 31-8-2007 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DSST ngày 23/3/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Kim Hoàng với bị đơn là anh Trần Minh Hải; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Mẹo, ông Trần Minh Bửu, anh Trần Minh Châu và anh Huỳnh Bá Phước.

    Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     

     
    4539 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận