Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài

Chủ đề   RSS   
  • #264195 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài

    Số hiệu

    08/HĐTP- KT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài

    Ngày ban hành

    30/03/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ08/HĐTP- KT

    NGÀY 30-3-2005 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIA CÔNG”

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
    ...

    Ngày 30 tháng 3 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài giữa:

    Nguyên đơn: Doanh nghiệp tư nhân kính cao cấp Thành Phát (gọi tắt là Doanh nghiệp Thành Phát); trụ sở doanh nghiệp: Kiêu Kỵ, quận Gia Lâm, Hà Nội. Bà Nguyễn Mai Hương, chủ doanh nghiệp, thường trú tại: 57 Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

    Bị đơnCông ty Glass tech International Inc (gọi lắt là GTI); trụ sở tại Hoa Kỳ. Đại diện: Ông Kim Jung Chul, quốc tịch Hàn Quốc, đăng ký tạm trú tại Kiêu Kỵ, quận Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

    NHẬN THẤY:

    Trong các năm 1996 và 1997, Doanh nghiệp Thành Phát có nhận gia công cắt kính nội thất cho GTI theo các hợp đồng sau:

    - Hợp đồng gia công số01/TP-IN96 ngày 12-9-1996. Phía GTI cung cấp không thanh toán nguyên phụ liệu để gia công sản phẩm. Hợp đồng đã hết hiệu lực ngày 31-12-1997 không thanh lý và không có tranh chấp khiếu nại.

    - Hợp đồng gia công số02/TP-IN97 ngày 25-10-1997 có nội dung chính:

    Số lượng sản phẩm:

    - Kính cắt thẳng : 19.500.000 sản phẩm

    - Kính cắt theo đường cong : 1.000.000 bộ

    - Tấm kính ốp đồng : 200.000 tấm

    Đơn giá gia công theo đơn đặt hàng; GTI cung cấp không thanh toán nguyên phụ liệu và hỗ trợ máy móc thiết bị (có bảng kê chi tiết gồm 38 loại máy và 950 sản phẩm đồng đã gia công và thanh toán bằng L/C trả ngay hoặc điện chuyển tiền. Thời hạn hợp đồng 5 năm (15-11-1997 - 15-11-2002). Hợp đồng được lập bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, đã được Bộ Thương mại chấp thuận cho thực hiện hợp đồng và tạm nhập thiết bị để gia công hàng.

    Doanh nghiệp Thành Phát và GTI sau đó còn ký 9 phụ lục và bổ sung phụ lục thực hiện hợp đồng số02/TP-IN9 đã đăng ký Hải quan tiếp nhận.

    Tháng 3/1998, Doanh nghiệp Thành Phát nhập đủ máy móc theo loại hình tạm nhập tái xuất gồm 39 loại máy của GTI chuyển giao (gồm 38 loại máy của bản kê hợp đồng 02 và 01 máy theo phục lục số 02 ngày 16-02-1998). Trước đó, vào tháng 9-1996, bà Nguyễn Mai Hương làm thủ tục cá nhân nhập khẩu phi mậu dịch 08 loại máy do ông Kim ký giấy cho tặng bà Hương ngày 10-4-1996, khi chưa thành lập Doanh nghiệp Thành Phát.

    Ngày 02-01-2001, hai bên ký biên bản quyết toán các phụ lục số 06 và 07 của hợp đồng 02. Nội dung bản quyết toán xác định tổng giá trị gia công của hai phụ lục này là 112.935 USD và tính đến ngày 31-12-2000, GTI còn nợ Doanh nghiệp Thành Phát là 3.365.30 USD. Cùng ngày 02-01-2001 còn có bản phụ lục số 09 thoả thuận số lượng hàng đặt gia công ước tính 412.600 USD và thanh toán bằng điện chuyển tiền hoặc L/C không huỷ ngang trước 30 ngày giao toàn bộ hàng.

    Quá trình thực hiện hai hợp đồng: Doanh nghiệp Thành Phát xuất trả GTI 22 lô hàng với tiền phí gia công là 462.670,95 USD. Hàng giao gối đầu không theo từng phụ lục hợp đồng. Lô hàng cuối cùng vào ngày 08-5-2001 trị giá 29.500 USD, GTI thanh toán bằng tiền mặt 272.156.357 VNĐ (≈18.762,2 USD). Cùng ngày 08-5-2001, hai bên ký bản bổ sung phụ lục số 09 quy định sản phẩm và đơn giá sản phẩm tính theo Inch; việc thanh toán bằng điện chuyển tiền trả trước hoặc L/C không huỷ ngang trước 30 ngày giao toàn bộ hàng. Ngoài ra bổ sung phụ lục 09 còn quy định về xử lý máy móc đã chuyển giao theo hợp đồng và chọn Toà quy định về xử lý máy móc đã chuyển giao theo hợp đồng và chọn Toà kinh tế Hà Nội giải quyết tranh chấp. Bản bổ sung lập 04 bản tiếng Anh, không có bản tiếng Việt và hiệu lực từ ngày ký (08-5-2001) đến ngày 15-11-2002 (Doanh nghiệp Thành Phát đăng ký Hải quan tiếp nhận ngày 20-3-2002).

    Ngày 26-5-2001, Doanh nghiệp Thành Phát thông báo ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh không thời hạn với lý do khó khăn tài chính vì ông Kim vi phạm phụ lục 09 không thanh toán L/C trước khi xuất hàng.

    Ngày 06-6-2001, hai bên có thoả thuận: ông Kim quản lý điều hàng sản xuất tiếp, chịu mọi chi phí, còn bà Hương làm thủ tục pháp lý để bảo đảm sản xuất kinh doanh và mang trả doanh nghiệp các chứng từ về hợp tác giữa hai bên, đồng thời bà Hương được trả lương những ngày đến làm việc. Từ đó bà Hương không đến doanh nghiệp nữa.

    Ngày 03-8-2001 hai bên lại họp thống nhất nhau dứt điểm hợp đồng và xoá tên doanh nghiệp (Doanh nghiệp Thành Phát). Đến ngày 01-12-2001, GTI có quyết định số 01/QĐ thông báo chấm dứt hợp đồng số02/TP-IN97 lý do vì Doanh nghiệp Thành Phát không giao hàng đúng hạn, nhiều vi phạm lao động và đốt huỷ tài liệu chứng từ (ngày 29-9-2001). Doanh nghiệp Thành Phát sau đó nhiều lần yêu cầu GTI nhận hàng và thanh toán tiền gia công. GTI yêu cầu Doanh nghiệp Thành Phát giao hàng trước ngày 15-10-2002.

    Ngày 10-10-2002, Doanh nghiệp Thành Phát có đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, đòi GTI thanh toán nợ về Hợp đồng gia công số02/TP-IN97 với nội dung:

    - Đề nghị Toà án giải quyết việc thanh lý hợp đồng số 02/TP -IN 97.

    - Công nhận quyền sở hữu của Doanh nghiệp Thành Phát đối với số máy móc đã nhập theo hợp đồng.

    - Cho phép Doanh nghiệp Thành Phát bán thanh lý 03 lô hàng còn lại để thanh toán khoản nợ.

    - Buộc GTI bồi thường các khoản:

    + 06 tháng tiền thuê nhà: 59.653.000đ

    + 01 tháng lương 170 lao động x 500.000đ = 85.000.000đ

    Tổng cộng: 114.653.000đ

    Tại phiên toà sơ thẩm nội dung yêu cầu của Doanh nghiệp Thành phát có thay đổi:

    - Yêu cầu thanh lý hợp đồng số02/TP-IN 97. GTI phải trả phí gia công còn thiếu: Giá trị phí gia công số hàng còn lại Toà án kiểm kê ngày 24-01-2003 thành tiền là 98.353 USD (tính theo Inch, đơn giá của bổ sung phụ lục 09 
    ngày 08-5-2001) khấu trừ tiền thừa phí gia công 1.886,90 USD theo quyết toán phụ lục số 06 và 07. Số tiền còn lại 96.446.10 USD GTI phải trả cùng với tiền lãi ngân hàng từ ngày 26-5-2001 đến 31-5-2003 là 407.130.396đ.

    - Doanh nghiệp Thành Phát được sở hữu số máy móc thiết bị nhập theo hợp đồng số02/TP-IN97 theo thoả thuận bản bổ sung phụ lục 09.

    - GTI chấm dứt Hợp đồng phải bồi thường các khoản:

    + Tiền thuê nhà xưởng 01 năm 119.306.000 đồng

    + Tiền đào tạo công nhân 85.000.000 đồng

    Tổng cộng: 204.306.000 đồng

    Phía GTI đề nghị cũng yêu cầu Toà án chỉ giải quyết tranh chấp hợp đồng02/TP-IN97.

    Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 19/KTST ngày 3-6-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

    - Xác định hợp đồng số02/TP-IN97 ngày 25-10-1997 và phụ lục 09 hợp đồng 02 ngày 02-01-2001 kỹ giữa doanh nghiệp tư nhân Thành Phát với Công ty Glass Tech International Inc (GTI) là hợp pháp và có hiệu lực. - Xác định bản bổ sung phụ lục 09 hợp đồng số02/TP-IN97 các bên ký ngày 08-5-2001 là vô hiệu toàn bộ.

    - Xác định Doanh nghiệp tư nhân Thành Phát và Công ty GTI đã chấm dứt việc thực hiện Hợp đồng số02/TP-IN97 từ ngày 30-9-2001.

    - Buộc GTI phải mở L/C hoặc TTR để thanh toán phí gia công còn thiếu của Doanh nghiệp Thành Phát là 58.191,90 USD (≈ 849.834.507 đồng tỷ giá thời điểm 30-9-2001 là 14.406đ/1USD). Khi GTI trả tiền thì bà Nguyễn Mai Hương - Chủ Doanh nghiệp Thành Phát có trách nhiệm làm thủ tục xuất trả GTI toàn bộ thành phẩm kính theo biên bản kiểm kê ngày 24-01-2003. GTI phải trả Doanh nghiệp Thành Phát số tiền lãi là 133.848.935 đồng.

    - Bác yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Nguyễn Mai Hương.

    - Bác yêu cầu công nhận thiết vị máy móc theo hợp đồng 02 thuộc Doanh nghiệp tư nhân Thành Phát của bà Nguyễn Mai Hương.

    - Hai bên phải tiến hành thanh khoản hợp đồng số02/TP-IN97 và các phụ lục, bổ sung phụ lục kèm theo hợp đồng tại cơ quan Hải quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật...

    Bản án sơ thẩm còn có quyết định về án phí...

    Sau khi xét xử sơ thẩm, Doanh nghiệp Thành Phát và GTI đều có đơn kháng cáo bản án. Doanh nghiệp Thành Phát đề nghị GTI phải trả theo nợ gốc là 98.353 USD; chịu lãi suất quá hạn theo luật định; phải bồi thường và Doanh nghiệp Thành Phát được công nhận quyền sở hữu số máy thiết bị của Hợp đồng 02. Còn GTI thì yêu cầu không thừa nhận nội dung các bản quyết toán phụ lục 06, 07, phụ lục 09 ngày 2-1-2001, và bản bổ sung phụ lục số 09 ngày 8-5-2001 là giả tạo, đồng thời phải được khấu trừ các chi phí của GTI từ sau ngày 6-6-2001 đến khi chấm dứt hợp đồng trong giá trị tiền gia công phải thanh toán.

    Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 13-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: sửa bản án kinh tế sơ thẩm số 19/KTST ngày 03-6-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, tuyên xử:

    1. Xác định hợp đồng gia công số02/TP-IN97 ngày 25-10-1997; bản quyết toán phụ lục số 06, 07 ngày 02-01-2001; bản phụ lục số 09 ngày 02-01-2001 và bản bổ sung phụ lục số 09 ngày 08-5-2001 của hợp đồng02/TP-IN/97  ngày 25-10-1997 giữa Doanh nghiệp tư nhân kính cao cấp Thành Phát và Công ty GTI là hợp pháp, có hiệu lực. Hợp đồng 02 và các phụ lục kèm theo nêu trên đã chấm dứt thực hiện từ ngày 01-12-2001.

    2. Buộc Công ty GTI phải mở L/C không huỷ ngang hoặc điện chuyển tiền (TTR) để thanh toán phí gia công còn thiếu cho Doanh nghiệp Thành Phát số tiền là 95.707,69 USD và số tiền lãi phát sinh là 14.069,03 USD. Tổng cộng là: 95.707,69 USD + 14.069,03 = 109.776,72 USD.

    3. Buộc GTI phải bồi thường cho Doanh nghiệp Thành Phát số tiền thuê nhà xưởng trong thời hạn 1 năm là 119.306.000 đồng.

    4. Sau khi GTI thực hiện xong việc trả tiền (gồm 109.776,72 USD và 119.306.000đ) bà Nguyễn Mai Hương - chủ Doanh nghiệp Thành Phát phải làm thủ tục xuất trả GTI toàn bộ số kính thành phẩm đã kiểm kê ngày 24-01-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

    5. Doanh nghiệp Thành Phát phải tiến hành thanh khoản hợp đồng số02/TP-IN97 và các phụ lục, bổ sung phụ lục kèm theo hợp đồng tại cơ quan Hải quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật...:

    a. 09 loại máy móc thiết bị do ông Kim cho tặng ngày 10-4-1996, Doanh nghiệp Thành Phát đã nhập khẩu hàng phi mậu dịch theo tờ khai Hải quan 
    số 316 ngày 26-7-1996 và số 398 ngày 13-9-1996 của Hải quan thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp Thành Phát.

    b. 39 loại máy móc thiết bị Doanh nghiệp Thành Phát tạm nhập theo tờ khai Hải quan số 2841 ngày 26-01-1998 và số 1624 ngày 31-3-1998 của Hải quan thành phố Hà Nội và các nguyên vật lịêu nhập khẩu còn lại Doanh nghiệp Thành Phát có trách nhiệm tái xuất trả cho GTI theo quy định của pháp luật... GTI chịu mọi chi phí tái xuất.

    Ngoài ra bản án còn có quyết định về án phí.

    Ngày 20-5-2004, ông Kim đại diện GTI có đơn yêu cầu xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm với các lý do chính:

    - Các bản quyết toán phụ lục 06, 07, phụ lục 09 ký ngày 2-1-2001 và bổ sung phụ lục 09 ngày 8-5-2001 là giả tạo vì được ký khống, đóng dấu cũ đã thay từ tháng 4-2000 và nội dung không đúng thực tế mã hàng sản xuất. Đề nghị giám định lại.

    - Toà án đã không khấu trừ các chi phí của GTI từ sau thời điểm 
    ngày 6-6-2001 sản xuất tiếp trong số hàng kiểm kê ngày 24-1-2003.

    - Buộc GTI phải giao 9 máy không đúng vì ông Kim không có quyền cho tặng máy.

    - Quyết định phương thức thanh toán L/C không đúng với thực tế vì GTI chưa bao giờ thực hiện.

    - Toà án không khấu trừ tiền nhà xưởng 59.630.000đ GTI đã trả thay cho Doanh nghiệp Thành Phát.

    - Đề nghị cho kiểm toán hoặc thanh tra tài chính để giải quyết vụ án.

    Tại Quyết định kháng nghị số20/KN-AKT ngày 31-12-2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định:

    1. Hợp đồng gia công số02/TP-IN97 của đương sự ký kết là hợp pháp vì đã được Bộ thương mại chấp thuận cho thực hiện hợp đồng và tạm nhập máy móc kèm theo để gia công hàng.

    2. Bản bổ sung phụ lục 09 ngày 08-5-2001 mà ngày 20-3-2002 Doanh nghiệp Thành Phát đăng ký Hải quan tiếp nhận khi đó không còn giá trị về mặt pháp lý và thực tế của việc thực hiện hợp đồng gia công. Vì trước đó ngày 03-8-2001 hai bên đã họp thoả thuận dứt điểm hợp đồng và giải thể Doanh nghiệp Thành Phát, đồng thời ngày 01-12-2001, GTI đã thông báo chấm dứt hợp đồng gia công số 02 với Doanh nghiệp Thành Phát. Hơn nữa nhận định như Toà án sơ thẩm bản bổ sung này bị coi vô hiệu là có cơ sở.

    3. Theo giấy cho tặng ngày 10-4-1996 của cá nhân ông Kim không phải GTI ký cho tặng bà Hương 08 loại máy móc khi đó chưa thành lập Doanh nghiệp Thành Phát, ký hợp đồng gia công số 02. Trong đơn kiện bà Hương không đề cập số máy móc này. Toà án cấp sơ thẩm không xem xét nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại quyết định Doanh nghiệp Thành Phát được sở hữu máy (09 loại máy) không có cơ sở và đúng thẩm quyền.

    4. Các bên đã có thoả thận vào ngày 03-8-2001 bàn việc chấm dứt hợp đồng nên GTI không có lỗi trong việc thông báo chấm dứt thực hiện hợp đồng gia công.

    5. Toà án hai cấp sơ và phúc thẩm đều chưa làm rõ các chi phí, thành phẩm mà ông Kim trực tiếp điều hành sản xuất theo biên bản ngày 06-6-2001 để xác định phí gia công phải thanh toán, là chưa bảo đảm quyền lợi của đương sự.

    Từ những nhận định trên đây, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 13-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, theo hướng huỷ bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 13-4-2004 để xét xử lại theo quy định của pháp luật để bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự.

    XÉT THẤY:

    Hợp đồng gia công cho nước ngoài số02/TP-IN/97 được ký kết 
    ngày 25-10-1997 giữa Doanh nghiệp Thành Phát và GTI đã đăng ký theo quy định, được Bộ thương mại phê duyệt cho Doanh nghiệp Thành Phát thực hiện hợp đồng gia công (văn bản số 6288/TMĐT ngày 29-12-1997). Hợp đồng này và các phụ lục hợp đồng (9 phụ lục) cũng đã được doanh nghiệp đăng ký làm thủ tục với cơ quan Hải quan tiếp nhận hợp đồng. Do đó hợp đồng số02/TP-IN/97 là có hiệu lực pháp luật. Xét bản bổ sung phụ lục số 09 ngày 08-5-2001 thì thấy bản bổ sung phụ lục được ký bởi người có thẩm quyền của các bên; người đại diện GTI thừa nhận chữ ký tại bản tiếng Anh; Doanh nghiệp Thành Phát có lập bản dịch ra tiếng Việt, đóng dấu và cung cấp bản dịch cho cơ quan Hải quan đúng theo quy định tại Thông tư của Tổng cục Hải quan số07/2000/TT-TCHQ ngày 02-11-2000 do đó Toà án cấp phúc thẩm xác định bản bổ sung phụ lục 
    số 09 hợp pháp là có cơ sở. Mặt khác, hiệu lực bản bổ sung phụ lục này đến ngày 15-11-2002 thay vì hợp đồng gia công số02/TP-IN/97. Ngày 01-12-2001, GTI có thông báo chấm dứt hợp đồng, nhưng sau thời điểm này, các bên vẫn còn quan hệ về thực hiện cam kết của hợp đồng số02/TP-IN/97. Việc đăng ký tại Hải quan là việc làm cần thiết, bắt buộc cho việc quản lý xuất, nhập khẩu, không phải là điều kiện để xác định hiệu lực của phụ lục hợp đồng.

    Doanh nghiệp Thành Phát và bên đặt gia công hàng có sự thoả thuận việc hoạt động sản xuất sau thời điểm ngày 06-6-2001 sẽ do bên đặt gia công hàng tiếp tục duy trì và chịu mọi chi phí sản xuất. GTI có yêu cầu trị giá phí gia công số sản phẩm có trong giai đoạn này tính cho Doanh nghiệp Thành Phát, thì phải khấu trừ các chi phí của GTI trong giá trị đó. Lẽ ra, Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần xác định rõ số lượng, giá trị sản phẩm GTI đã làm được trong thời gian này để giải quyết tranh chấp, thì lại cho là khoản chi phí của GTI nằm ngoài hợp đồng gia công, tách ra thành một vụ kiện khác là không hợp lý, không bảo đảm quyền lợi đương sự.

    Theo hợp đồng gia công số02/TP-IN/97, GTI cung cấp không thanh toán cho Doanh nghiệp Thành Phát chỉ gồm 38 loại máy móc thiết bị để gia công hàng; số máy móc này đã được Bộ thương mại duyệt và làm thủ tục Hải quan nhập khẩu theo loại hình tạm nhập - tái xuất. Còn 08 loại máy mà bà Hương khai ông Kim tặng cho ngày 10-4-1996, trước khi thành lập Doanh nghiệp Thành Phát (ngày 19-4-1996) và trước khi Doanh nghiệp Thành Phát và GTI hợp đồng gia công số02/TP-IN/97, nếu các đương sự có tranh chấp là tranh chấp dân sự; Toà án cấp sơ thẩm không có quyết định về số máy móc này, nhưng Toà án cấp phúc thẩm quyết định cho Doanh nghiệp Thành Phát được sở hữu 09 loại máy móc này là không đúng thẩm quyền.

    Việc GTI thông báo chấm dứt hợp đồng vào ngày 01-12-2001 là căn cứ vào thoả thuận giữa hai bên ngày 03-8-2001. Tuy nhiên, trước đó GTI đã không chuyển tiền cho Doanh nghiệp Thành Phát trước 30 ngày (trước khi xuất hàng) là vi phạm thoả thuận tại bản bổ sung phụ lục số 09. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến Doanh nghiệp Thành Phát lâm vào khó khăn tài chính, không tiếp tục tiến hành sản xuất được nên GTI phải chịu tránh nhiệm. Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra làm rõ để xác định phía Doanh nghiệp Thành Phát có vi phạm hợp đồng hay không để xác định đúng mức độ lỗi của GTI.

    Việc Toà án cấp phúc thẩm buộc GTI phải mở L/C hoặc điện chuyển tiền để thanh toán tiền hàng còn thiếu là không đúng vì trong vụ án này Toà án có thẩm quyền và trách nhiệm quyết định một bên thanh toán tiền và một bên giao hàng gia công, còn việc thanh toán tiền không nhất thiết phải quy định bằng mở L/C hay điện chuyển tiền.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Chấp nhận một phần quyết định kháng nghị số 20//KN-AKT ngày 31-12-2004 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; huỷ bản án kinh tế sơ thẩm 
    số 19/KTST ngày 03-6-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 13-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết, xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    ________________________________________________________________________________________

    - Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:

    1. Cần làm rõ thêm một số tình tiết trong vụ án;

    2. Đưa tổng Công ty xuất nhập khẩu Hải Phòng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

    - Nguyên nhân dẫn dến việc huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

    1.Thiếu sót trong việc xác minh, làm rõ một số tình tiết quan trọng, có ý nghĩa trong việc xác định lỗi và trách nhiệm của từng bên trong vụ án;

    2.Thiếu sót trong việc xác định người tham gia tố tụng.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 04:44:46 CH Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 04:43:06 CH
     
    3732 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận