Số hiệu
|
07/2011/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về "tranh chấp về thừa kế tài sản" của bà Nguyễn Thị Luyện
|
Ngày ban hành
|
21/03/2011
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
.....
Ngày 21 tháng 3 năm 2011, tại trụ sở Toà ân nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Luyện sinh năm 1940; trú tại nhà số 107/3 khu phố 1, phường Tân Hòa, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1958;
2. Bà Nguyễn Thị Bạch Huệ sinh năm 1957.
Ông Hùng và bà Huệ đều trú tại nhà số 210 khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai; ông Hùng uỷ quyền cho bà Huệ đại diện (theo giấy ủy quyền ngày 08-8-2006)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Lan Hương sinh 1952; trú tại nhà số 387 ấp Ngũ Phúc, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; uỷ quyần cho ông Nguyễrn Khắc Hiếu sinh năm 1950 đại diện (theo giấy ủy quyền ngày 08-9-2006);
2. Bà Nguyễn Thị Viết Thuỷ sinh năm 1957; cư trú tại Đức (địa chỉ tại Martm Luther Str 6A-66111- Saar Briicken west Germany); tạm trú tại nhà số 210 khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai; uỷ quyền cho ông Nguyễn Hoàng Lộc sinh năm 1977, trú tại nhà số 15/3 khu phố 1, phường Tân Hoà, thành phố Biên Hoà đại diện (theo hợp đồng ủy quyền ngày 08-9-2006).
3 . Bà Trần Thị Phương sinh năm 1951 ;
4. Anh Nguyễn Viết Cường sinh năm 1972;
5. Anh Nguyễn Viết Nhật sinh năm 1977;
6. Nguyễn Viết Đức sinh năm 1981
7. Anh Nguyễn Viết Thanh sinh năm 1985;
Bà Phương, anh Cường, anh Nhật, anh Thanh và anh Đức đều trú tại nhà số 139 khu phố 1, Quốc lộ 1, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
8. Chị Nguyễn Viết Ngọc Nga sinh năm 1973; trú tại nhà số 330/14/3 khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tinh Đồng Nai.
9. Chị Nguyễn Viết Ngọc Mỹ sinh năm 1975, trú tại nhà số 4/33 khu phố 5, phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
10. Chi Nguyễn Viết Ngọc Anh sinh năm 1979; trú tại nhà số 18/1 khu phố 1, tổ 6, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Anh Cường, chị Mỹ, chị Ngọc Anh, anh Đức, anh Thanh và anh Nhật uỷ quyền cho bà Trần Thị Phương và chị Nguyễn Viết Ngọc Nga đại diện (văn bản ủy quyền ngày 30-6-2006 và ngày 20-9-2006).
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện ngày 10-02-2006 và quá trình tố tụng, nguyên đơn và bà Nguyễn Thị Luyện trình bày:
Cụ Nguyễn Văn Kiệm và cụ Nguyễn Thị Đào có năm người con là: bà, ông Nguyễn Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Lan Hương, bà Nguyễn Thị Viết Thủy và ông Nguyễn Viết Thảo (chết năm 2005; có vợ là bà Trần Thị Phương và các con là: anh Nguyễn Viết Cường, anh Nguyễn Viết Nhật, anh Nguyễn Viết Đức, anh Nguyễn Viết Thanh, chị Nguyẫn Viết Ngọc Nga, chị Nguyễn Viết Ngọc Mỹ và chị Nguyễn Viết Ngọc Anh).
Về tài sản: Hai cụ tạo lập được căn nhà số 210 khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai và phần đất nông nghiệp phía sau nhà này. Cụ Đào chết ngày 01-4-1997, cụ Kiệm chết ngày 23-3-2000; cả hai cụ đều không để lại di chúc. Sau đó, vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất này. Năm 2000, Nhà nước lấy một phần đất thuộc khuôn viên căn nhà nêu trên để mở rộng đường và đền bù 53.585.000 đồng (ông Hùng đại diện cho chị em nhận số tiền này).
Ngày 12-7-2001, các chị em trong gia đình họp và có văn bản thỏa thuận rằng: "...tất cả các anh em đồng ý thống nhất giao cho Nguyễn Văn Hùng làm chủ quyền, quản lý, sửa chữa, xây cất và chăm sóc căn nhà số 210 khóm 6 phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa để làm nơi thờ tổ tiên, không được mua bán sang nhượng nếu không có sự đồng ý của các anh chị em trên”
Năm 2003, vợ chồng ông Hùng đã sửa chữa xây dựng lại nhà. Quá trình quản lý nhà, ông Hùng đã coi nhà này như tài sản riêng của mình và không cho con cháu vào thắp hương thờ cúng các cụ.
Vì các lý do trên, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án chia thừa kế bằng giá trị đối với phần đất (đã được xây tường bao) thuộc khuôn viên nhà 210 khu phố 6, phường Tân Tiến và chia thừa kế 53.585.000 đồng do Nhà nước đền bù (riêng phần đất nông nghiệp phía sau nhà 210 nêu trên thì bà không yêu cầu chia thừa kế).
Bị đơn là ông Nguyễn Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Bạch Huệ (do bà Huệ đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Cụ Nguyễn Văn Kiệm và cụ Nguyễn Thị Đào ra tạo lập được tài sản sau đây:
- Nhà đất tại 210 khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa và phần đất nông nghiệp phía sau nhà này.
- Nhà đất tại 139, khu phố 1, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa (đất này do cụ Kiệm và cụ Đào khai phá năm 1972; ông Nguyễn Viết Thảo kê khai và đứng tên; sau khi ông Thảo chết thì vợ và con của ông Thảo tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất.
Năm 2000, Nhà nước mở rộng đường, đã lấy một phần đất thuộc khuôn viên nhà 210 nêu trên và đền bù 53.585.000 đồng. Ngày 12-7-2001, các con của hai cụ đã họp và giao cho ông Hùng được làm chủ quyền, quản lý, sủa chữa, xây cất căn nhà này để thờ cúng tổ tiên và không được bán nếu không có sự đồng ý của các anh chị trong gia đình (bà Thủy không ký tên tại giấy thỏa thuận này, nhưng đồng ý với nội dung giấy thỏa thuận) .
Năm 2003 vợ chồng bà đã dùng số tiền Nhà nước đền bù nêu trên và bỏ ra hơn 70.000.000đồng để xây dựng lại căn nhà (như hiện nay) để ở và thờ cúng cha mẹ. Ngày 12-4-2006, bà và ông Hùng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 1281,7m2 (trong đó 200m2 đất đô thị; 1081,7m2 đất trồng cây lâu năm). Vợ chồng bà ở đây và thờ cúng cha mẹ; không cản trở các con và cháu của hai cụ thờ cúng, nên không đồng ý chia thừa kế nhà đất này (ông Hùng và bà Huệ không yêu cầu Tòa án giải quyết phần đất nông nghiệp phía sau nhà 210 nêu trên).
Người có quyền lợi và nghiã vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Lan Hương (do ông Nguyễn Khắc Hiếu đại diện) và bà Nguyễn Thị Viết Thuỷ (do ông Nguyễn Hoàng Lộc đại diện) thống nhất với trình bày của vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng; yêu cầu giữ lại nhà 210 khu phố 6 làm nơi thờ cúng các cụ. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị Lan Hương trình bày thêm rằng: nếu phải chia thừa kế thì bà nhường phần thừa kế của mình cho ông Hùng và xin được xét xử vắng mắt.
Bà Nguyễn Thị Phương, anh Nguyễn Viết Cường, anh Nguyễn Viết Nhật, anh Nguyễn Viết Thanh, anh Nguyễn Viết Đức, chị Nguyên Viết Ngọc Nga, chị Nguyễn Viết Ngọc Mỹ và chị Nguyễn Viết Ngọc Anh (do bà Nguyễn Thị Phương và chị Nguyễn Viết Ngọc Nga đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Cụ Kiệm và cụ Đào để lại căn nhà số 210, khu phố 6, phường Tân Tiến. Năm 2003,vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng đã sửa chữa, xây dựng lại nhà này. Còn phần đất trồng rau phía sau căn nhà 210 thuộc quyền sử dụng của vợ chồng bà Phương (vợ chồng bà Phương nhận chuyển nhượng phần đất này của ông Nguyễn Văn Hùng vào năm 1986 và năm 1998, nhưng ông Hùng đã kê khai và vợ chồng ông Hùng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất ngày 12-4-2006).
Bà Phương và các con (vợ và các con của ông Thảo) yêu cần được chia phần thừa kế là 01 mét đất chiều rộng, chiều dài theo nhà 210, để làm lối đi ra phần đất trồng rau phía sau căn nhà nêu trên (hiện nay không còn lối đi nào khác)
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 25-9-2006, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định.
Căn cứ đều 195, khoản 2 Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 674 và Điều 675 Bộ luật dân sự; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.
Tuyên xử .
Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Luyện.
Xác định diện tích đất 275,1m2 trị giá 148,12 lượng vàng 24K 95% căn nhà tường rào đang tọa lạc tại 210 phường Tân Tiến - Tp. Biên Hoà và khoản tiền bồi thường do quy hoạch mở đường 53.585.000đồng là di sản thừa kế do cụ Kiệm, cụ Đào để lại cho bà Luyện, bà Phương và các con, bà Hương, bà Thủy và ông Hùng mỗi kỷ phần là 29,624 lượng vàng 24K 95% và 10.717.000đồng.
Giao cho ông Hùng tiếp tục quản lý sử dụng diện tích đất ngang 4,29m, dài 48,1m căn nhà tường rào số 210 khu phố 6, phường Tân Tiến đang toạ lạc cắt thửa 04, tờ bản đồ số 2, phường Tân Tiến, Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hoà đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng ngày 12/4/2006, có tứ cận:
- Đông giáp đất Nguyễn Ngọc Loan.
- Tây giáp lối đi bà Phương và các con.
- Nam giáp phần đất còn lại
- Bắc giáp đường Quốc lộ 1.
Ông Hùng phải thanh toán kỷ phần thừa kế cho bà Nguyễn Thị Luyện là 29,624lượng vàng 24K 95% và 10.717.000đồng. Ông Hùng, bà Huệ phải thanh toán khoản tiền bồi thường 10. 717.000 đồng và mở lối đi 1m ngang, dài 48,1m cho bà Phương và các con, có tứ cận :
- Đông giáp phần diện tích nhà đất còn lại của ông Hùng và bà Huệ.
- Tây giáp hạt của anh Lê Văn Thành.
- Nam giáp phần đất còn lại.
- Bắc giáp đường đốc lộ 1 .
Tạm thời ông Hùng, bà Huệ quản lý kỷ phần của bà Hương và bà Thuỷ, được nhận giá trị 1m ngang căn nhà, mái che, nền và tường rào do bà Phương và các con thanh toán là 17.784.000 đồng.
Bà Phương và các con được chia hiện vật là diện tích đất 01m ngang, dài 48,1m và 10. 717. 000 đồng. Bà Phương và các con phải thanh toán tại giá trị 1m ngang dài 48,1m nhà, mái che, nền và tường rào cho ông Hùng, bà Huệ là 17. 784. 000đồng.
Ông Hùng, bà Huệ, bà Phương và các con có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, đăng ký kê khai quyền sự dụng đất theo quy định.
Về án phí:
- Bà Luyện, bà Phương và các con, ông Hùng, bà Huệ mỗi người phải chịu 2.807.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Số tiền 2.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm bà Luyện nộp tại biên lai thu số 007142 ngày 22-3-2000 của Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai được tính trừ án phí sơ thẩm bà Luyện phải chịu, bà Luyện còn phải nộp 10.807.000 đồng.
Kể từ ngày các đương sự có đơn yêu cầu thi hành án nếu các đương sự có nghiã vụ thi hành án không thanh toán số tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Ngày 06-10-2006, ông Nguyễn Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Viết Thuỷ và ông Nguyễn Khắc Hiếu (đại diện cho bà Nguyễn Thị Lan Hương theo ủy quyền) kháng cáo có nội dung: không đồng ý phân chia thừa kế căn nhà 210 khu phố 6, phường Tân Tiến; yêu cầu giữ lại nhà này làm nơi thờ cúng cha mẹ theo giấy thỏa thuận ngày 12-7-2001.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 29/2007/DSPT ngày 18-01-2007, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định :
Giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Ông Nguyễn Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Bạch Huệ có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định số37/2010/DS-KN ngày 15-01-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 29/2007/DSPT ngày 18-01-2007 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tạo thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số16/2006/DS-ST ngày 25-9-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Căn nhà số 210 trên giận tích 275,1m2 đất tại khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai có nguồn gốc của cụ Nguyễn Văn Kiệm và cụ Nguyễn Thị Đào. Năm 1997 cụ Đào chết và năm 2000 cụ Kiệm chết, đều không để lại di chúc. Sau đó, vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Bạch Huệ tiếp tục quản lý sử dụng nhà đất này. Ngày 12-7-2001, bà Nguyễn Thị Luyện, ông Nguyễn Viết Thảo, bà Nguyễn Thị Lan Hương và ông Nguyễn Văn Hùng (bốn trong năm người con của hai cụ) lập “Đơn thỏa thuận ủy quyền" với nội dung : “. . . tất cả các anh em đồng ý thống nhất giao cho Nguyễn Văn Hùng làm chủ quyền quản lý, sửa chữa, xây cất và chăm sóc căn nhà số 210 khóm 6 phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa để làm nơi thờ tổ tiên, không được mua bán, sang nhượng nếu không có sự đồng ý của các anh chị em" (bà Thủy không tham gia thỏa thuận, nhưng hoàn toàn đồng ý với nội dung thỏa thuận này). Thỏa thuận này được các con của vợ chồng cụ Kiệm và cụ Đào tự nguyện xác lập và có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường Tân Tiến ngày 16-7-2001; năm 2003 vợ chồng ông Hùng đã sửa chữa xây dựng tại nhà như hiện nay; đến ngày 12-6-2006 vợ chồng ông Hùng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định tại Điều 4 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì thỏa thuận nêu trên là hợp pháp và có hiệu bắt buộc thực hiện đối với các bên đương sự. Do đó, căn nhà 210 khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần của những người con của cụ Kiệm và cụ Đào (theo quy định tại Điều 216 Bộ Luật dân sự năm 2005).
Do ông Nguyễn Văn Hùng được giao nhà theo thỏa thuận hợp pháp nêu trên, nên chỉ khi ông Hùng vi phạm thỏa thuận này (tự ý bán nhà đất không có sự đồng ý của những người con khác của hai cụ hoặc không thờ cúng các cụ tại nhà này nữa hoặc không cho con cháu của các cụ thờ cúng các cụ tại nhà này)thì những người con khác của hai cụ mới có quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung. Trong trường hợp của tài sản chung thì chỉ chia cho bà Nguyễn Thị Luyện phần tài sản bằng giá trị (vì những người con khác của hai cụ không yêu cầu chia tài sản chung) và xem xét về lối đi của gia đình bà Trần Thị Phương. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ vấn đề nêu trên mà lại xác định căn nhà nêu trên là tài sản thừa kế và chia thừa kế cả cho người không yêu cầu chia tài sản và buộc vợ chồng ông Hùng, bà Huệ chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch, là sai.
Về số tiền do Nhà nước đền bù 53.585.000 đồng: Năm 2000 Nhà nước quy hoạch mở rộng đường và lấy một phần đất thuộc khuôn viên căn nhà nêu trên. Theo Phiếu chi số 111 ngày 30-10-2000 và phiếu chi số 149 ngày 26-9-2001, thì Hội đồng đền bù thành phố Biên Hòa đã đền bù cho ông Nguyễn Văn Hùng tổng cộng 53.585.000 đồng. Quá trình tố tụng, vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng trình bày rằng: năm 2003 vợ chồng ông đã dùng số tiền do Nhà nước đền bù này và bỏ ra hơn 70.000.000 đồng để xây dựng lại căn nhà như hiện nay. Do đó, cần làm rõ thời điểm ông Hùng nhận tiền đền bù và thời điểm vợ chồng ông Hùng xây dựng lại nhà này: nếu ông Hùng nhận tiền đền bù trước khi xây dựng lại nhà và đã dùng toàn bộ số tiền này vào việc xây dựng lại nhà, thì không còn di sản để chia (vì các đương sự không yêu cầu chia nhà); nếu ông Hùng chỉ dừng một phần tiền để xây dựng lại nhà, thì phần tiền còn lại được chia thừa kế, nếu ông Hùng nhận tiền đền bù sau khi đã xây dựng lại nhà thì chia thừa kế số tiền này theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ vấn đề nêu trên, mà lại chia thừa kế số tiền 53.585.000 đồng là thiếu căn cứ.
Tại Biên bản định giá tài sản ngày 08-9-2006, Hội đồng định giá đã định giá 01 mét đất chiều rộng (dài theo khuôn viên đất) là 25 lượng vàng đến 30 lượng vàng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá đất là 28 lượng vàng/1m (chiều rộng), tổng trị giá diện tích đất là 148,12 lượng vàng; lẽ ra phải quy đổi số vàng này ra tiền đồng Việt Nam để làm căn cứ xét xử và tính án phí, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại buộc ông Nguyễn Văn Hùng phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị Luyện 29,624 lượng vàng và buộc ông Nguyễn Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Bạch Huệ (những người không yêu cầu chia tài sản) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là sai. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được sai sót này mà vẫn giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm nêu trên cũng là thiếu sót.
Hiện nay, bà Trần Thị Phương và các con (vợ và các con của ông Nguyễn Viết Thảo) đang sử dụng phần đất nông nghiệp ở phía sau nhà 210, khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa. Bà Phương yêu cầu chia thừa kế phần đất có chiều rộng 1m, chiều dài theo khuôn viên nhà 210 nói trên, để làm lối đi ra phần đất nông nghiệp ở phía sau. Do đó, khi giải quyết lại vụ án cần đảm bảo lối đi cho gia đình bà Phương. Nếu có căn cứ chia tài sản chung thì chia cho bà Phương phần đất để làm lối đi; nếu không có căn cứ chia tài sản chung, nhưng tất cả những người con còn lại của hai cụ đồng ý cho gia đình bà Phương một phần đất làm lối đi thì chấp nhận sự tự nguyện này; nếu họ không đồng ý thì vẫn phải dành cho gia đình bà Trần Thị Phương một lối đi, nhưng gia đình bà Phương phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn Hùng giá trị quyền sử dụng đất và vật kiến trúc (nếu có) trên phần đất này, để ông Hùng tu bổ, sửa chữa căn nhà nêu trên.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 29/2007/DSPT ngày 18-01-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 25-9-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Luyện với bị đơn là ông Nguyễn Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Bạch Huệ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Lan Hương, bà Nguyễn Thị Viết Thủy, bà Trần Thị Phương, anh Nguyễn Viết Cường, anh Nguyễn Viết Nhật, anh Nguyễn Viết Đức, anh Nguyễn Viết Thanh, anh Nguyễn Viết Ngọc Nga, chị Nguyễn Viết Ngọc Mỹ, chị Nguyễn Ngọc Anh.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.