Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa chị Ngô Thị Huyền và chị Vũ Thị Đôi về việc "Tranh chấp về quyền sử dụng đất

Chủ đề   RSS   
  • #265518 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa chị Ngô Thị Huyền và chị Vũ Thị Đôi về việc "Tranh chấp về quyền sử dụng đất

    Số hiệu

    47/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa chị Ngô Thị Huyền và chị Vũ Thị Đôi về việc "Tranh chấp về quyền sử dụng đất

    Ngày ban hành

    06/12/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

         …..

    Ngày 06-12-2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn:

    1. Chị Ngô Thị Huyền sinh năm 1964; trứ tại thôn Kim Sơn, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    2. Anh Ngô Đức Bằng, sinh năm 1961; trú tại: Cộng hòa Liên bang Đức (anh Bằng là chồng của chị Huyền và ủy quyền cho chị Huyền theo văn bản ngày 8-2-2005).

    Bị đơn :

    - Chị Vũ Thị Dôi, sinh năm 1963 ;

    - Anh Dương Công Nghĩa, sinh năm 1961 (anh nghĩa là chồng của chị Dôi)

    Chị Dôi và anh Nghĩa cùng trú tại thôn Kim Sơn, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện ngày 14-12-2003 và các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Ngô Thị Huyền trình bày:

    Gia đình chị có đất liền kề với đất của bà Trần Thị Hữu (là mẹ chồng của chị Dôi). Tháng 01-1993, chị đã xây tường phân định ranh giới giữa hai nhà, chị Dôi cũng xây một đoạn tường khoảng 5m tiếp theo tường chị xây. Ngày 21-10-2003, chị Dôi phá đoạn tường dài 7,9m để chiếm 85,68m2 đất của gia đình chị sử dụng làm lối đi ra đường liên thôn. Diện tích đất này chị đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất (đứng tên chồng chị là anh Ngô Đức Bằng) nên yêu cầu Tòa án buộc chị Dôi trả cho chị 85,68m2 đất mà chị Dôi đã lấn chiếm.

    Bị đơn là chị Vũ Thị Dôi trình bày: Mẹ chồng của chị là bà Trần Thị Hữu cho chị khuôn viên đất ở từ năm 1984. Năm 1993 , chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 1342m2. Năm 1996, chị Huyền xây tường lấn đất của gia đình chị, chị yêu cầu chị Huyền dỡ tường để trả lại đất cho gia đình chị nhưng chị Huyền không dỡ nên ngày 21-10-2003 chị phá tường lấy lại đất, nay chị không đồng ý trả đất theo yêu cầu của chị Huyền.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 17-3-2005, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định:

    Xác nhận 85,68m2 đất đang tranh chấp ở thôn Kim Sơn, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang thuộc quyên sử dụng hợp pháp của chị Ngô Thị Huyền và anh Ngô Đức Bằng.

    Buộc chị Vũ Thị Dôi và anh Dương Công Nghiã phải trả lại chị Huyền diện tích đất trên đây có các cạnh như sau:

    Hai cạnh chiều dài (từ phiá Bắc về phía Nam) giáp đất mẫu giáo và giáp đất chị Dôi và chị Hiền: 27,2m.

    Hại cạnh chiều rộng phiá Bắc 04,0m, phiá Nam (giáp đường thôn) :2,3m (đã trừ 0,5m tiếp giáp với đất mẫu giáo).

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18-3-2005 chị Vũ Thị Dôi kháng cáo không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

    Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 190/2006/DSPT ngày 22-9-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

    Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về an phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Vũ Thị Dôi khiếu nại cho rằng tất của chị Huyền sử dụng chỉ có 656m2 nhưng được cấp giấy chứng nhận 781,4m2 và Tòa án công nhận chị Huyền có quyền sử dụng 781,4m2 là không đúng phần đất tranh chấp chị sử dụng liên tục hơn 20 năm, đã được cấp sổ đỏ nhưng Tòa án lại xác định đất của chị Huyền để buộc chị trả là không đúng.

    Tại Quyết định số537/2009/KN-DS ngày 21-9-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 17-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì tại bản đồ địa chính năm 1993 thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang thể hiện 85,68m2 đất cỏ tranh chấp là một phần thửa đất số 1281 do bà Trần Thị Hữu (mẹ chồng của chị Dôi) đứng tên chủ sử dụng và là một phần thửa đất số 35 (phía trong thửa 1281) do chị Dôi đứng tên chủ sử dụng có diện tích là 1342m2. Tuy nhiên, trong thực tế thì chị Dôi xây cất nhà ở thửa 1281, còn bà Hữu lại xây cất nhà ở và quản lý sứ dụng thửa đất số 35 . Trong khi đó, chị Huyền được xác định có quyền sử dựng thửa đất số 34 có diện tích là 656m2 và có lối đi riêng, nhưng chị Huyền lại đang sử dụng một phần thửa đất số 1281 và thửa số 35 để làm lối đi mới.

    Trong quá trình quản lý, sử dụng đất, các đương sự đăng ký kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Ngày 28-7-1993 chị Dôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 3118m2 trong đó thửa 35 là 1342m2. Trong khi đó theo kết quả đo đạc thực tế ngày 9-5-2006 thì thửa đất số 35 của chị Dôi chỉ là 1l79m2 (thiếu 163m2 so với diện tích được công nhận tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

    Năm 2002, anh Bằng (chồng của chị Huyền) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 781,4m2 mang số thửa 42 (thửa 34 cũ). Như vậy, diện tích anh Bằng được cấp giấy chứng nhận nhiều hơn so với diện tích được xác định tại bản đồ địa chính năm 1993 là 125,4m2 (trong đó có 85,68m2 có tranh chấp).

    Chị Huyền cho rằng, diện tích đất của chị nhiều hơn so với diện tích được thể hiện tại bản đồ năm 1993 là do có một phần đất của tập thể hợp thức hóa cho chị. Lời khai trên của chị Huyền phù hợp với xác nhận của cán bộ địa chính xã. Tuy nhiên, theo bản đồ địa chính năm 1993 thì đất của bà Hữu và chị Dôi liền kề với đất của Trường Mẫu giáo và không thể hiện có lối đi (mới) mà chị Huyền cho là đất công đã được hợp pháp hóa cho chị. Mặt khác, tại Công văn số 20/CV/TN-MT ngày 22-2-2006 Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lạng Giang và tại Báo cáo số 10 ngày 13-5-2005 ủy ban nhân dân thị trấn Vôi thừa nhận quá trình xét cấp giấy chưa nhận huyền sử dụng đất cho anh Bằng là có sai sót.

    Trong trường hợp này lẽ ra phải xác minh làm rõ có hay không việc sử dụng chung đất giữa bà Hữu với chị Dôi; có hay không việc bà Hữu cho chị quyền diện tích đất làm- lối đi mới của chị Huyền (liền kề với Trường Mẫu giáo, đang có tranh chấp); trình tự thủ tục đăng ký kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Dôi, anh Bằng, bà Hữu đã đúng qui định của pháp luật hay chưa ? Khi các đương sự đăng ký kê khai thì các hộ liền kề biết hay không biết và nếu biết thì có việc các hộ liền kề xác nhận ranh giới hay không? Đồng thời xác minh làm rõ có hay không chính quyền địa phương giao thêm đất của tập thể cho chị Huyền như lời khai của chị và xác nhận của cản bộ địa chính xã.

    Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án chị Huyền cho rằng từ năm 1993 chị đã xây tường làm ranh giới với phần đất của chị Dôi và chị Dôi cũng xây một phần tường xác định ranh giới đất của hai gia đình. Trong khi đó, chị Dôi khai năm 1996 chị Huyền xây tường lấn đất của gia đình chị, chị có yêu cầu nhưng chị Huyền không phá bỏ nên tháng 10-2003 chị tự phá bỏ tường để lấy lại đất.

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng chưa xác minh làm rõ thời điểm xây dựng, người xây dựng nhưng lại căn cứ vào lời khai của chị Huyền, xác nhận của cán bộ địa chính xã và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Bằng mà không xem xét Công văn số 20/CV/TN-MT ngày 22-2-2006 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lạng Giang và Báo cáo số 10 ngày 13-5-2005 của ủy ban nhân dân thị trấn Vôi về việc xác định thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Bằng để từ đó buộc chị Dôi trả đất là không đủ căn cứ.

    Hơn nữa, trong phần đất có tranh chấp có một phần thuộc thửa đất số 128l do bà Hữu đứng tên chủ sử dụng, nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa bà Hữu tham gia tố tụng là thiếu người tham gia tố tụng.

    Ngoài ra, anh Bằng đang cư trú tại Cộng hòa Liên bang Đức tuy ngày 8-2-2005 anh Bằng ủy quyền cho chị Huyền, giấy ủy quyền của anh Bằng chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo qui định của pháp luật nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định chị Huyền là người đại diện của anh Bằng là không đúng.

    Vì các lẽ trên;

    Căn cứ khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 190/2006/DSPT ngày 22-9-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 17-3-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là chị Ngô Thị Huyền, anh Ngô Đức Bằng với bị đơn là chị Vũ Thị Dôi và anh Dương Công Nghĩa.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm tại vụ án theo đúng qui định của pháp luật.

     

     
    4725 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận