Số hiệu
|
24/2010/HS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Trần Việt Hải về tội "Trộm cắp tài sản" và "Tàng trữ trái phép chất ma túy"
|
Ngày ban hành
|
07/07/2010
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
Ngày 07 tháng 7 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhan dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Trần Việt Hải sinh năm 1971; đăng ký nhân khẩu thường trú tại 80A khu Lắp Ghép Nam, Ô 17, phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; tạm trú tại 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa 12/12; nghề nghiệp: lái xe thuê; con ông Trần Văn Thoan và bà Nguyễn Thị Thược; nhân thân: tháng 6-1989 bị Toà án nhân dân Hà Nam Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" nhưng cho hưởng án treo (đã được xoá án tích); tiền án: tại bản án số 176/HSST ngày 27-9-2000 Toà án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" (ra tù tháng 8-2001); bị bắt giam từ ngày 05-02-2005 (hiện đã chấp hành xong hình phạt tù).
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Ông Trần Văn Thoan sinh năm 1936; trú tại 119/2 đường 11, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh (là bố của bị cáo Trần Việt Hải).
Ngoài ra, trong vụ án còn có 22 bị cáo khác bị kết án về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý", "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" với mức hình phạt từ 01 năm 11 tháng 18 ngày tù đến tử hình.
NHẬN THÂY:
Ngày 02-02-2005 và ngày 03-02-2005, Cơ quan điều tra đã bắt quả tang Nguyễn Hùng Nguyên, Trình Hữu Minh và một số đối tượng khác đang mua hêrôin tại khu vực cầu Binh Lợi, phường 13, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Qua điều tra, ngày 05-02-2005 Cơ quan điều tra đã tiến hành bắt khẩn cấp Trần Thị Hương tại nơi ở số 119/2 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Trong lúc khám xét nơi ở của Hương, Cơ quan điều tra đã bắt quả tang Trần Việt Hải (là anh trai của Hương) đang tàng trữ 02 tép hêrôin. Sau đó, Cơ quan điều tra đưa Hải về nhà Hải ở số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp khám xét và thu giữ tiếp 02 tép hêrôin do Hải cất giấu để sử dụng. Tổng trọng lượng hêrôin Hải tàng trữ là 1,1002 gam. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Trần Việt Hải 44.330 USD (để ở tủ đầu giường của Hải), 01 xe ô tô KIA (số khung là VMAFB 2272 KH 001670) và kê biên căn nhà số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh (đều do Hải đứng tên).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 90/2007/HSST ngày 22-01-2007, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; các điểm a, b, g và k khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thị Hương tù chung thân về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý". Áp dụng khoản 1 Điều 41 , khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự tịch thu của Trần Thị Hương 220 USD, 141.111.000 đồng, điện thoại di động và buộc Hương phải nộp 84.000.000 đồng, 6.000 USD tiền thu lợi bất chính để sung quỹ Nhà nước; áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Việt Hải 03 (ba) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng khoản 1 Điều 41 và khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, tịch thu của Trần Việt Hải 44.330 USD, 01 xe ô tô KIA và căn nhà số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh để sung quỹ Nhà nước.
Ngày 25-01-2007 và ngày 26-01-2007, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn Thoan (bố của Trần Việt Hải) và Trần Việt Hải kháng cáo xin trả lại 44.330 USD, 01 xe ô tô KIA và căn nhà số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11 quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh; ngoài ra, Hải còn xin giảm hình phạt.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 623/2007/HSPT ngày 21-5-2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên mức hình phạt và việc tịch thu tài sản của Trần Việt Hải.
Tại Kháng nghị số36/2009/HS-TK ngày 21-9-2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 623/2007/HSPT ngày 21 -5-2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần tịch thu tài sản của Trần Việt Hải, để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà giám đốc thẩm nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
XÉT THÂY:
1. Về tội danh và hình phạt chính:
Trần Việt Hải bị bắt quả tang tàng trữ trái phép 1,1002 gam hêrôin. Hành vi phạm tội của Hải thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt Trần Việt Hải 03 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" là đúng pháp luật.
2. Về quyết định tịch thu tài sản:
Toà án cấp sơ thẩm áp dụng đồng thời khoản 1 Điều 41 và khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự để tịch thu của Trần Việt Hải số tài sản gồm 44.330 USD, 01 xe ô tô KIA và căn nhà số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, với nhận định "khối tài sản trên là do Trần Thị Hương bằng những hoạt động phạm tội của mình mà có. Hoặc chí ít cũng xác định được là của bị cáo Trần Việt Hải theo giấy tờ bị cáo đứng tên. Như vậy, cần thiết phải tích thu sung quỹ Nhà nước theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự” là không có căn cứ.
Theo lời khai của Trần Thị Hương thì do biết Hải bị nghiện nên thỉnh thoảng Hương có cho Hải ít vụn hêrôin đế hút, tiền Hương có được do mua bán hêrôin chỉ để Hương sử dụng, không mang về cho gia đình; nhà và xe của Hải là do ông Trần Văn Thoan (bố của Hải và Hương) cho tiền mua. Cũng theo lời khai của Trần Việt Hải và ông Trần Văn Thoan thì số tiền 44.330 USD là tiền của ông Thoan để ở tủ đầu giường của Hải, còn xe ô tô và căn nhà số 32/6/7 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh là do ông Thoan cho Hải tiền mua và Hải đứng tên sở hữu. Nguồn gốc của số tài sản trên là do ông Thoan làm chủ thầu xây dựng từ năm 1988. Tuy ông Thoan và Hải khai khác nhau về giá tiền mua nhà và mua xe, nhưng cũng không có căn cứ xác định số tài sản nêu trên là do Trần Thị Hương phạm tội mà có; do vậy, không có cơ sở áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự (vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có) để tịch thu tài sản của Trần Việt Hải. Mặt khác, cũng không có căn cứ xác định số tài sản nêu trên của Trần Việt Hải là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội (điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự) hoặc là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành (điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự) .
Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng thêm một số hình phạt bổ sung trong đó có tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mục đích của hình phạt bổ sung tịch thu tài sản quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự là nhằm tước một phần hoặc toàn bộ kinh tế để người phạm tội không còn khả năng phạm tội và việc tịch thu phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Hành vi tàng trữ trái phép 1,1002 gam hêrôin của Trần Việt Hải không phát sinh lợi nhuận bất chính, không hình thành tài sản do phạm tội mà có, chỉ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân mà bị tuyên tịch thu số tài sản gồm tiền, xe, nhà như trên là không tương xứng. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự để tịch thu tài sản của Trần Việt Hải là không đúng với quy định của pháp luật, không đúng với đường lối xử lý chung.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Trần Việt Hải và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn Thoan kháng cáo xin xem xét trả lại số tài sản đã bị tịch thu. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm đã không phát hiện ra sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm nên vẫn giữ nguyên quyết định nêu trên của Toà án cấp sơ thẩm là không đúng.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 623/2007/HSPT ngày 21-5-2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về phần tịch thu tài sản của Trần Việt Hải; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật