Quyết định giám đốc thẩm xét xử chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

Chủ đề   RSS   
  • #265521 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Số hiệu

    50/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Ngày ban hành

    07/12/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

       ......

    Ngày 7 tháng 12 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:

    l) Bà Hồ Thị Đào sinh năm 1939;

    2) Chị Nguyễn Thị Hằng (Thư) sinh năm 1966 ;

    3) Chị Nguyễn Thị Hằng Nga sinh năm 1970;

    4) Chị Nguyễn Thị Sự sinh năm 1977;

    Bà Đào, chị Hằng, chị Nga và chị Sự cùng trú tại tổ 8, ấp 8 Biển II, xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

    5) Chị Nguyễn Thị Hương sinh năm 1961; trú tại ấp Xẻo Quao, xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

    6) Chị Nguyễn Thị Thủy sinh năm 1965; trú tại tổ 8, Kinh Xáng, xã Tây Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

    7) Chị Nguyễn Thị Hồng sinh năm 1973; trú tại ấp Hòa Phú, xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

    8) Anh Nguyễn Rớt sinh năm 1960; cư trú tại Mỹ (Địa chỉ: 1918 Strathmore A ve Sangabriel, CA 91776 USA); ủy quyền cho bà Hồ Thị Đào đại diện (văn bản ủy quyền ngày 24-01-2006).

    Chị Nga, chị Sự, chị Hương, chị Thủy và chị Hồng ủy quyền cho chị Nguyễn Thị Hằng đại diện văn bản ủy quyền ngày 17-12-2005).

    Bị đơn: Chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh sinh năm 1976; trú tại tổ 8, ấp 8 Biển II, xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Anh Nguyễn Văn Thuận sinh năm 1963 ; trú tại ấp 7 Xáng, xã Đông Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện ngày 21-3-2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Hồ Thị Đào trình bày:

    Bà và ông Nguyễn Văn Khuynh kết hôn năm 1957 và sinh được 8 người con là: anh Rớt (hiện cư trú tại Mỹ), chị Hương, chị Nga, chị Hằng, chị Hồng, chị Thủy, anh Tâm và chị Sự.

    Năm 1958 vợ chồng bà được Chính quyền Cách mạng cấp 36.130m2 đất tại ấp 8 Biển II, xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang; vợ chồng bà đã cất nhà ở tại đây. Do mâu thuẫn vợ chồng, năm 1985 bà bỏ về Cà Mau chung sống với ông Lê Văn Thắng (khi đi bà mang theo anh Tâm và chị Sự để nuôi dưỡng, ông Khuynh nuôi các con còn lại). Năm 1987, ông Khuynh đưa bà Nguyễn Thị Sương (Xương) về chung sống như vợ chồng, nhưng không có con chung. Bà và ông Khuynh chưa ly hôn.

    Năm 1994 , ông Khuynh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 36.130m2 (gồm 4.030m2 đất thổ cư và đất vườn; 32.l00m2 đất 1 vụ lúa). Cũng trong năm 1994, anh Tâm từ Cà Mau trở về ở cùng với ông Khuynh. Đến năm 1995 anh Tâm kết hôn với chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh. Ngày 09-9-1995, ông Khuynh chết, không để lại di chúc. Sau đó, bà trở về đây ở với bà Sương và vợ chồng anh Tâm. Các người con khác của vợ chồng bà đã có gia đình riêng và ở nơi khác. Năm 2000, bà cất 01 căn nhà lớp lá (khoảng l00m2) trên một phần đất này để ở.

    Sau đó anh Tâm đã tự ý lập "Biên bản họp gia đình” và giả mạo chữ ký của anh chị em trong gia đình tại biên bản này, để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên hộ anh Nguyễn Văn Tâm mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2002. Bà và các con khác không biết việc hộ anh Tâm được cấp giấy chứng nhận quyển sử dụng đất này. Cũng trong năm 2002 bà Sương về Cà Mau ở với con riêng đến nay.

    Ngày 02-1 1-2004, anh Tâm chết (do tự tử). Bà và chị Nhanh tiếp tục quản lý, sử dụng đất. Ngày 15-02-2006, chị Nhanh cố đất này cho anh Nguyễn Văn Thuận với thời hạn 3 năm và lấy 80 chỉ vàng để chi dùng riêng.

    Vì lý do nêu trên, bà yêu cầu chị Nhanh trả 1/2 đất (phần đất có căn nhà mà bà đang ở) để bà dưỡng già (không yêu cầu chia căn nhà cũ của vợ chồng bà); 1/2 đất còn lại là di sản thừa kế của ông Khuynh thì chia đều cho 8 người con (bà không nhận phần thừa kế của mình); yêu cầu hủy hợp đồng cố đất giữa chị Nhanh với anh Thuận.

    Đồng nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hằng, chị Nguyễn Thị Hằng Nga, chị Nguyễn Thị Hương, chị Nguyễn Thị Thủy, chị Nguyễn Thị Hồng và chị Nguyễn Thị Sự (do chị Nguyễn Thị Hằng đại diện theo ủy quyền) thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của của bà Hồ Thị Đào.

    Bị đơn là cho Huỳnh Thị Thanh Nhanh trình bày: Bà Hồ Thị Đào (vợ của ông Nguyễn Văn Khuynh), nhưng bà Đào đã bỏ đi chung sống như vợ chồng với ông Nguyễn Văn Thắng ở tỉnh Cà Mau từ năm 1978 (lúc đó anh Tâm còn nhỏ không có mẹ nuôi dưỡng); năm 1987, ông Khuynh cưới bà Nguyễn Thị Sương về làm vợ và nuôi anh Tâm. Năm 1994 ông Khuynh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 36.130m2. Do đó, đất này của vợ chồng ông Khuynh và bà Sương.

    Ngày 16-02-1995, chị và anh Tâm kết hôn. Vợ chồng chị ở cùng nhà với ông Khuynh và bà Sương tại đất này. năm 1995 ông Khuynh chết. Bà Sương và vợ chồng chị tiếp tục quản lý, sử dụng nhà, đất. Vợ chồng chị có 2 con chung (là cháu Nguyễn Thị Cẩm Tiên sinh năm 1996 và cháu Nguyễn Văn Dĩ sinh năm 1997). Năm 2002, bà Sương giao nhà, đất cho vợ chồng chị, rồi về Cà Mau ở với con riêng đến nay.

    Cũng trong năm 2002, anh Tâm lập "Biên bản họp gia đình” có nội dung: chị Hương, chị Thủy, chị Hằng, chị Nga và anh Tâm thống nhất cho anh Tâm được chuyển quyền sử dụng đất từ ông Khuynh sang anh Tâm (chị Nga ký tên vào Biên bản họp gia đình này; ngoài ra chị Nga còn ký giùm chị Hương, chị Thủy và chị Hằng). Sau đó, anh Tâm làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ngày 25-4-2002 hộ anh Nguyễn Văn Tâm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 36.130m2 (gồm đất một vụ lúa 32.100m2;đất vườn 3.630m2; đất ở 400m2). Sau đó, anh Tâm thế chấp phần đất trên và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện An Minh vay 10.000.000 đồng để nuôi tôm.

    Đến năm 2003, bà Đào trở về xin anh Tâm một phần đất để cất nhà ở và được anh Tâm đồng ý. Sau đó, bà Đào cất một căn nhà tại đây để ở riêng. Từ đó, bà Đào tranh chấp đất với vợ chồng chị. Do mâu thuẫn giữa bà Đào và anh Tâm, anh Tâm đã tự tử và chết vào tháng 11 năm 2004. Sau đó, chị đã cố đất nêu trên cho anh Nguyễn Văn Thuận để lấy 80 chỉ vàng nuôi con và trả nợ cho Ngân hàng.

    Đất đang tranh chấp của vợ chồng chị, nên không đồng ý chia đất theo yêu cầu của các nguyên đơn.

    Người có quyền lơị, nghiã vụ liên quan là anh Nguyên Văn Thuận trình bày: Ngày 15-2-2006, chị Nhanh cố cho anh 36.130m2 đất và lấy 80 chỉ vàng 24k, thời hạn cố là 36 tháng kể từ ngày cố đất; nếu chị Nhanh có đủ vàng thì được chuộc lại đất. Thực tế, anh chỉ sử dụng phần đất 1 vụ lúa (13.000m2) để nuôi tôm; phần đất còn lại, gia đình chị Nhanh vẫn sử dụng. Khi nhận cố đất, anh không biết đất đang có tranh chấp. Yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật.

    Tại bản án sơ thẩm số 09/2006/DSST ngày 12-9-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết đinh:

    Áp dụng Điều 128 và Điều 137, các điểm b và đ khoản 1 Điều 639; điểm a khoản 1 Điều 676. Điều 680 và Điều 735 Bộ luật dân sự năm 1995.

    Căn cứ các điều 27và 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 41 Khoản 4 điểm a và Khoản 3 Điều 42 Nghị định181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính Phủ.

    Xử:

    1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị Đào và các đồng nguyên đơn: Nguyên Rớt, Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Thị Hằng Nga, Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Thị Thủy, Nguyên Thị Hồng, Nguyễn Thị Sự đối với bị đơn Huỳnh Thị Thanh Nhanh, về việc việc đòi quyền sử dụng đất được hưởng theo diện thừa kế.

    2. Tuyên bố hợp đồng cố đất giữa chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh và anh Nguyễn Văn Thuận xác lập ngày 15/02/2006 vô hiệu toàn bộ.

    3) Buộc chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh phải hoàn trả cho anh Nguyễn Văn Thuận 80 chỉ vàng 24K.

    4) Buộc anh Nguyễn Văn Thuận phải giao trả cho chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh toàn bộ diện tích đất ruộng và đặt vườn đã nhận cầm cố tại thửa 142 và 143 có diện tích đất đo đạc thực tế 34.842,8m2; và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Nguyễn Văn Tâm số Đ. 810236.

    5) Công nhận diện tích đất 34.842,8m2 tờ bản đồ số 2 tại thửa 143 = 27.260.5m2 và thửa 142 = 7.582m2 tọa lạc tại tổ 8, ấp 8 Biển II xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang là thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Nguyễn Văn Khuynh, bà Hồ Thị Đào.

    6) Kiến nghị Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện An Minh thu hồi lại giây chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ. 810236 cấp cho anh Nguyễn Văn Tâm ngày 05-4-2004 diện tích 36.130m2 giấy này do anh Nguyễn Văn Thuận đang giữ.

      7). Chia cho chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh đuợc hưởng quyền sử dụng đất theo phần thừa kế của chồng chị được hưởng là 2.209,8m2 có vị trí như sau: Mặt trước giáp lộ xe chiều ngang 17m; mặt sau giáp thửa đất lúa ngang 24m; một bên giáp đất ông Phan Văn Tho dài 112m, một bên giáp đất bà Đào dài 112m.

      8) Buộc chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh phải giao trả cho bà Hồ Thị Đào 1/2 diện tích đất bằng 17. 421 m2 và giao trả cho các đồng nguyên đơn diện tích đất 15.212 m2 tại thửa số 142 và 143 tờ bản đô số 2 ấp 8 biển II, xã Thuận Hòa, huyện An Minh, tổng cộng diện tích phải giao trả là 32. 633m2 có vị trí như sau:

    - Mặt trước giáp lộ xe chiều ngang 30m+17m=47m

    - Mặt giáp kênh công cộng chiều ngang 63,5m.

    - Mặt bên giáp đất ông Nguyễn Văn Mạnh chiều dài 558,1m.

    - Mặt bên giáp đất ông Phan Văn Tho chiều dài 432,1m + 43,2m + 69m =544,3m.

    (Theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 27-6-2006)

    9. Kiến nghị Phòng Tài nguyên môi trường huyện An Minh cho các đương sự tiến hành thủ tục chuyển quyền sử dụng đất từ tên ông Nguyễn Văn Khuynh sang tên bà Hồ Thị Đào, chị Nhanh và các đồng nguyên đơn theo diện tích được nêu trên.

    Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 18-9-2006, anh Nguyễn Văn Thuận kháng cáo có nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng cố đất giữa anh và chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh vô hiệu, là không đúng.

    Ngày 20-9-2006, chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh kháng cáo có nội dung: không đồng ý giao trả 1/2 đất cho bà Hồ Thị Đào và yêu cầu xem xét công sức của anh Nguyễn Văn Tâm đối với đất đang tranh chấp nói trên.

    Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án số33/2007QĐPT-DS ngày 23-01-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 444/2006/DSPT ngày 18-10-2006 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”giữa nguyên đơn là bà Hồ Thị Đào; chị Nguyễn Thị Hằng (Thư);chị Nguyễn Thị Hằng Nga, chị Nguyễn Thị Sự, chị Nguyễn Thị Hương, chị Nguyễn Thị Thủy, chị Nguyễn Thị Hồng, anh Nguyễn Rớt với bị đơn là chị Huynh Thị Thanh Nhanh, người có quyền lơị, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Thuận.

    2. Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2006/DSST ngày 12-9-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

    3. Số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà người kháng cáo đã nộp được sung vào công quỹ Nhà nước.

    Sau đó, chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh có đơn khiếu nại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án nêu trên. Bà Hồ Thị Đào có đơn yêu cầu được thi hành bản án dân sự sơ thẩm số 09/2006/DSST ngày 12-9-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

    Tại Quyết định số55/2010/KN-DS ngày 22-01-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án số33/2007/QĐPT-DS ngày 23-01-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 09/2006/DSST ngày 12-9-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Về nội dung: Diện tích 34.842,8m2 đất (đo thực tế) đang tranh chấp có nguồn gốc do chính quyền cách mạng cấp cho vợ chồng ông Nguyên Văn Khuynh và bà Hồ Thị Đào trước năm 1960; sau đó, ông Khuynh và bà Đào cất nhà ở tại đây. Do mâu thuẫn vợ chồng, bà Đào đã bỏ đi chung sống với ông Lê Văn Thắng tại tỉnh Cà Mau từ năm 1985. Năm 1987, ông Khuynh đưa bà Nguyễn Thị Sương về chung sống tại nhà đất này, nhưng không có con chung. Các con của ông Khuynh, bà Đào trưởng thành và lập gia đình riêng ở nơi khác, còn lại anh Nguyễn Văn Tâm ở với ông Khuynh và bà Sương tại nhà đất này. Năm 1994, ông Khuynh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 09- 09-1995 ông Khuynh chết. Sau đó, bà Đào trở về và làm nhà ở trên một phần đất này; còn bà Sương chuyển đi ở nơi khác. Ngày 05-4-2002 hộ anh Nguyễn Văn Tâm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 36.130m2 (đất ở 400m2; đất vườn 3.630m2; đất nông nghiệp 32.100m2). Các nguyên đơn cho rằng anh Nguyễn Văn Tâm đã giả mạo chữ ký của các chị ruột để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Xem xét "Đơn xin chuyển quyền” ngày 11-3-2002 và “Biên bản họp gia đình”ngày 12-3-2D02 (do Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện An Minh cung cấp) thấy rằng:

    - “Đơn xin chuyển quyền " ngày 11-3-2002 do anh Nguyễn Văn Tâm viết có nội dung: năm 1995 ông Khuynh để lại cho anh Tâm một miếng đất để làm ruộng, " . . .Nay chúng tôi họp anh chị em bàn bạc thống nhất để lại cho tôi làm chủ trên miếng đất này để sản xuất”(Đơn này có chữ ký đề tên chị Hương, chị Thủy, chị Hằng và chị Nga; có xác nhận của ông Lý Văn Sỹ- Tô tự quản số 8; có xác nhận ông Nguyễn Quang Chức- là Trưởng ấp; xác nhận của ủy ban nhân dân xã Thuận Hòa).

    - "Biên bản họp gia đình" ngày 12-3-2002 có nội dung: "...Nay chị em chúng tôi họp mặt gia đình đồng ý cho em út của chúng tôi là Nguyễn Văn Tâm chuyển quyền sử dụng đất (anh Tâm viết biên bản; có chữ ký đề tên chị Hương, chị Thủy, chị Hằng, chị Nga; có chữ ký đề tên người chứng kiến là ông Nguyễn Văn Mạnh và ông Phan Văn Nam; có chữ ký của ông Lý Văn Sỹ -Tổ tự quản số 8; xác nhận của ông Nguyễn Quang Chức- Trưởng ấp; có xác nhận của ủy ban nhân dân xã Thuận Hòa).

    Tại “Bản tự khai" ngày 10-4-2006, chị Nhanh xác nhận: ". . .chồng tôi có làm một biên bản họp gia đình và chỉ có chị Nga ký tên vào và ký tên giùm những chị em khác vào biên bản họp gia đình ...". Ngày 22-8-2006, ông Nguyễn Quang Chức xác nhận: năm 2002 ông là Trưởng ấp 8 và là Bí thư chi bộ; ông có chứng kiến cuộc họp gia đình anh Tâm, trong cuộc họp có bốn chị của anh Tâm và hai người bà con phía gia đình anh Tâm; về phía chính quyền có ông và ông Lý Văn Sỹ tham dự, "trong cuộc họp mọi người đều thống nhất và ký tên như trong biên bản họp gia đình được lập ngày 12-3-2002".

    Trong trường hợp này lẽ ra phải lấy lời khai của tất cả những người đã chứng kiến việc lập “Biên bản họp gia đình”, những người xác nhận vào "Đơn xin chuyển quyền” và “Biên bản họp gia đình" (Tòa án cấp sơ thẩm mới lấy lời khai của ông Nguyễn Quang Chức); làm rõ những người con nào (của ông Khuynh và bà Đào) đã ký tên trong các tài liệu nói trên (nếu đương sự có yêu cầu giám định chữ ký và nộp tiền chi phí giám định thì phải trưng cầu giám định), để xác định tính xác thực của các tài liệu này. Nếu người con nào của ông Khuynh và bà Đào đã tự nguyện ký tên tại “Đơn xin chuyển quyền" hoặc "Biên bản họp gia đình” thì phải xác định họ đã nhường phần thừa kế của mình cho anh Tâm. Các vấn đề nêu trên chưa được làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia thừa kế phần tài sản của ông Khuynh cho những người thừa kế, là chưa đủ căn cứ.

    Mặt khác, anh Nguyễn Rớt (là con của ông Khuynh và bà Đào) đang sống tại Mỹ, nhưng tại giấy ủy quyền ngày 24-01-2006 đề tên anh Nguyễn Rớt ủy quyền cho bà Hồ Thị Đào đại diện lại chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Pháp lệnh lãnh sự có hiệu lực từ 01-01-1991 và khoản 1 Điều 418 Bộ Luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận ủy quyền này là chưa đủ căn cứ. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ anh Nguyễn Rớt có phải là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hay không và theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật nhà ở thì anh Nguyễn Rớt có đủ điều kiện được nhận thừa kế bằng hiện vật hay chỉ được nhận thừa kế bằng giá trị, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh phải giao trả cho đồng nguyên đơn 15.212m2 đất (như vậy, anh Nguyễn Rớt cũng được hưởng phần thừa kế bằng hiện vật là đất ở và đất nông nghiệp), là chưa đủ căn cứ.

    Về tố tụng: Ngày 05-12-2006, Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm ngày 22-12-2006. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 22-12-2006 có mặt nguyên đơn và có mặt bị đơn (chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh là người kháng cáo); vắng mặt anh Nguyễn Văn Thuận là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh Thuận cũng là người kháng cáo). Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định hoãn phiên tòa ngày 22-12-2006, là đúng.

    Ngày 02-01-2007 Tòa án cấp phúc thẩm có giấy triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa lúc 7 giờ 30 phút ngày 23-01-2007 (ngày 17-01-2007 Tòa án cấp phúc thẩm lập Biên bản tống đạt giấy triệu tập này cho các đương sự). Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 23-01-2007 có mặt nguyên đơn, nhưng vắng mặt hai người kháng cáo là anh Nguyễn Văn Thuận và chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh trong đó em Nhanh mới chỉ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất. Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 chưa III Nghị quyết số05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: “Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hoãn phiên tòa. Trường hợp không xác định được người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng hoãn phiên tòa". Như vậy, chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh (người kháng cáo) mới chỉ vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, là không đúng pháp luật.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án số33/2007/QĐPT-DS ngày 23-01-2007 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 09/2006/DSST ngày 12-9-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Hồ Thị Đào, chị Nguyễn Thị Hằng (Thư), chị Nguyễn Thị Hằng Nga, chị Nguyễn Thị Hương, chị Nguyễn Thị Thủy, chị Nguyễn Thị Hồng, anh Nguyễn Rớt và chị Nguyễn Thị Sự; bị đơn là chị Huỳnh Thị Thanh Nhanh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn Thuận.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

     
    4991 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận