Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265427 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

    Số hiệu

    10/2009/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

    Ngày ban hành

    13/05/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 13 tháng 5 năm 2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:

    1. Anh Hồ Như Hải (Hồ Duy Hải), sinh năm 1982;

    2. Chị Hồ Kim Yến (Hồ Thị Yến), sinh năm 1989;

    Cùng trú tại: 1/9 ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

    3. Cụ Lê Thị Lê, sinh năm 1944 (chết ngày 16-7-2004), người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ Lê gồm có ông Hồ Thanh Quang sinh năm 1964, bà Hồ Thị Thanh Lệ, sinh năm 1966, bà Hồ Thị Thanh Hằng sinh năm 1969 (ông Quang, bà Hằng ủy quyền cho bà Hồ Thị Thanh Lệ làm đại diện tham gia tố tụng).

    Bị đơn: Bà Phạm Thị Hồng, sinh năm 1961; trú tại 170/19 khu phố 1, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Cụ Trần Thị Ren, sinh năm 1945;

    2. Bà Hồ Thị Thanh Nga, sinh năm 1970;

    3. Bà Hồ Thị Thanh Hoa, sinh năm 1971;

    Cùng trú tại: ấp Tân Thông 5, xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.

    4. Bà Hồ Thị Thanh Diễm, sinh năm 1978; trú tại: 399/41B Liên tỉnh 5, phường 5, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh

    5. Cụ Trần Thị Tánh (chết ngày 21-8-2005) các thừa kế của cụ Tánh gồm:

    + Ông Phan Văn Ba, sinh năm 1948;

    + Anh Phan Ngọc Tuấn, sinh năm 1975;

    + Anh Phan Ngọc Tuyến, sinh năm 1979;

    + Chị Phan Thị Kim Hồng, sinh năm 1970;

    + Chị Phan Thị Kim Vân, sinh năm 1971;

    Cùng trú tại: 20B/8 ấp Bình Đường, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

    6. Bà Phan Thị Kim Anh; cư trú tại Đài Loan.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 16-02-2001 nguyên đơn là cụ Lê Thị Lê, anh Hồ Như Hải, chị Hồ Kim Yến khởi kiện trình bày: Vợ chồng ông Hồ Thanh Xuân và bà Phạm Thị Hồng có 2 người con chung là anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến. Ngày 23-5-1993 ông Xuân chết, không để lại di chúc.

    Cha, mẹ của ông Xuân là cụ Hồ Văn Lo (chết năm 1998) và cụ Lê Thị Lê (chết năm 2004) có 4 người con chung là các ông, bà Hồ Thị Thanh Hằng, Hồ Thị Thanh Lệ, Hồ Thanh Quang và Hồ Thanh Xuân. Ngoài ra, cụ Lo còn chung sống với cụ Trần Thị Ren và có 3 người con chung là các bà Hồ Thị Thanh Diễm, Hồ Thị Thanh Nga và Hồ Thị Thanh Hoa.

    Tài sản chung của ông Xuân và bà Hồng là một ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất 515m2 tại số 20/8 ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương và các tài sản khác là đồ dùng sinh hoạt như xe máy, ti vi, cassette... Ngày 28-02-2000, bà Hồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên, ngày 29-02-2000 bà Hồng thỏa thuận chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng tòan bộ diện tích đất trên cho bà Trần Thị Tánh với giá 300.000.000 đồng, bà Tánh đã nhận đất và xây dựng nhà trên diện tích 256,7 m2 phần còn lại là đất trống.

    Các nguyên đơn cho rằng: nhà đất nêu trên là tài sản chung của bà Hồng và ông Xuân, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của ông Xuân (chỉ yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất, các tài sản khác không yêu cầu chia) theo quy định của pháp luật.

    Bị đơn là bà Hồng đồng ý với yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn. Quyền sử dụng 1/2 nhà, đất của bà, bà đồng ý chuyển nhượng cho bà Tánh; kỷ phần bà được thừa kế của ông Xuân, bà nhường cho hai con của bà là anh Hải và chị Yến.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    - Bà Tánh đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Hồng và bà vì hợp đồng đã hoàn thành, bà đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu Tòa án xác định phần của ông Xuân là 1/2 nhà đất để chia thừa kế thì bà đồng ý cho chuộc lại 1/2 theo giá thị trường.

    - Cụ Lê và các con của cụ Lê yêu cầu chia di sản của ông Xuân, phần được hưởng sẽ nhường cho anh Hải và chị Yến.

    - Cụ Ren và 3 người con yêu cầu được hưởng thừa kế của cụ Lo, kỷ phần cụ Ren nếu được hưởng sẽ cho 3 người con là bà Diễm, bà Nga và bà Hoa. 

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 55/DSST ngày 14-10-2002, Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương quyết định:

    1. Chấp nhận một phần yêu cầu chia di sản thừa kế về quyền sử dụng đất của các nguyên đơn.

        2. Xử chia cho bà Phạm Thị Hồng được quyền quản lý sử dụng và thừa kế quyền sử dụng diện tích (4m x70,4m)= 281,5m2 đất có tứ cận:

    + Bắc giáp xa lộ Trường Sơn dài 4m

    + Nam giáp tường rào công ty Thành Lễ dài 4m

    + Đông giáp phần đất thừa kế của anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến dài 70,4m

    + Tây giáp đất Ngô Văn Hòa dài 70,4m

    (Trong đó có diện tích 257m2 đất nhà ở của bà Trần Thị Tánh hiện nay do bà Hồng chuyển nhượng; còn lại 24,5m bà Hồng quản lý sử dụng thừa kế)

    - Xử chia thừa kế cho anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến đồng thừa kế quyền sử dụng diện tích đất còn lại: (3mx70,4m)= 233,5m2có tứ cận:

    + Bắc giáp xa lộ Trường Sơn dài 3m

    + Nam giáp tường rào công ty Thành Lễ dài 3m

    + Đông giáp đất Tạ Văn Bắc dài (23,4+22m+25,2m)

    + Tây giáp phần đất thừa kế của bà Hồng dài 70,4m

    - Tạm giao phần thừa kế quyền sử dụng đất của Hồ Kim Yến diện tích 116,75m2 cho anh Hồ Như Hải quản lý giữ gìn đến khi chị Hồ Kim Yến trưởng thành thì giao lại. Không được mua bán, chuyển nhượng, cho tặng người khác nếu không được sự đồng ý của Hồ Kim Yến (có sơ đồ chia đất kèm theo quyết định)

    - Anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến (do anh Hồ Như Hải đại diện) có trách nhiệm giao lại phần thừa kế quyền sử dụng đất bằng tiền cho các chị Hồ Thị Thanh Diễm, Hồ Thị Thanh Nga, Hồ Thị Thanh Hoa mỗi người hưởng thừa kế bằng tiền 11.400.000 đồng/người; cộng 34.320.000 đồng.

    Tuyên hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị Hồng và bà Trần Thị Tánh có diện tích 257,5m2để chia thừa kế nêu trên. 

    Công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại 257,5m2 có hiệu lực hai bên đã giao nhận trên thực tế bà Tánh đã cất nhà ở trên đất hiện nay.

    Bà Tánh, bà Hồng, anh Hải có trách nhiệm kê khai đăng ký và tách quyền sử dụng đất ra để quản lý sử dụng sau khi chia thừa kế.

    Tách phần yêu cầu bồi thường thiệt hại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Tánh với bà Hồng thành một vụ kiện khác, nếu như không thỏa thuận được giá trị bồi thường thiệt hại hợp đồng.

    Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về án phí và trách nhiệm do chậm thi hành án.

    Ngày 18-10-2002 bà Tánh kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 90/DS.PT ngày 02-7-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

    1. Bác yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Tánh, sửa án sơ thẩm số 55/DSST ngày 14-10-2002 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An như sau:

     Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của các nguyên đơn anh Hồ Như Hải, chị Hồ Kim Yến và bà Lê Thị Lê.

    Tuyên xử:

    Bà Phạm Thị Hồng được quản lý sử dụng 288,38m2 (chưa trừ hành lang bảo vệ đường bộ) có giá trị 398.260.000 đồng. Phần diện tích 288,38m2 này bà Hồng đã chuyển nhượng cho bà Tánh nên bà Tánh được tiếp tục quản lý, sử dụng, có tứ cận:

    + Bắc giáp xa lộ Trường Sơn dài 3,67m

    + Nam giáp tường rào công ty Thành Lễ dài 4m

    + Đông giáp phần đất chia cho Hồ Như Hải và Hồ Kim Yến dài 75,4m

    + Tây giáp đất Ngô Văn Hòa dài 75,4m

     (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo), không phải bù hòan giá trị chênh lệch cho anh Hải và chị Yến.

    Anh Hồ Như Hải và chị Hồ Thị Kim Yến được quyền quản lý, sử dụng diện tích 286,8m2 còn lại có giá trị 395.100.000 đồng, có tứ cận:

    + Bắc giáp xa lộ Trường Sơn dài 2,98m

    + Nam giáp tường rào công ty Thành Lễ dài 3,4m

    + Đông giáp đất Tạ Văn Bắc dài 75,4m

    + Tây giáp phần đất bà Hồng chuyển cho bà Tánh dài 75,4m

    (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo)

    Anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến có trách nhiệm giao lại cho bà Lê Thị Lê kỷ phần thừa kế của ông Hồ Văn Lo có giá trị là 79.366.000 đồng

    Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị Hồng và bà Trần Thị Tánh có diện tích 286,8m2 để chia thừa kế nêu trên. Công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại giữa bà Phạm Thị Hồng và bà Trần Thị Tánh có diện tích 288,38m2 (phần đất mà bà Tánh đã xây dựng nhà ở hiện nay).

    Bà Tánh, anh Hải và chị Yến có trách nhiệm kê khai, đăng ký và tách quyền sử dụng đất để quản lý, sử dụng.

    Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định về án phí và trách nhiệm do chậm thi hành án.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Tánh khiếu nại.

    Tại Quyết định số 123/KNDS ngày 30-12-2004, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm số 55/DSST ngày 14-10-2002 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số42/GĐT-DS ngày 25-02-2005, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 55/DSST ngày 14-10-2002 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số20/2007/DS-ST ngày 02-10-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

        1. Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn Hồ Như Hải, Hồ Kim Yến và các thừa kế của cụ Lê Thị Lê.

    - Bà Phạm Thị Hồng được quyền quản lý sử dụng 256,7m2 (trong đó có 150m2 đất thổ cư và 106,7m2 đất nông nghiệp) đất tọa lạc tại ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tứ cận khu đất:

     Hướng Bắc giáp xa lộ Trường Sơn;

    Hướng Nam giáp tường xây;

    Hướng Đông giáp đất giao cho ông Hải và bà Yến;

    Hướng Tây giáp tường xây

     (Khu đất có vị trí A trên sơ đồ bản vẽ kèm theo).

    - Khu đất này, bà Phạm Thị Hồng đã chuyển nhượng cho bà Trần Thị Tánh, bà Tánh chết nên các thừa kế của bà Tánh được tiếp tục quản lý, sử dụng.

    - Ông Hồ Như Hải và bà Hồ Kim Yến được quyền quản lý, sử dụng 253,3m2 đất (Trong đó có 150m2 đất thổ cư và 103,3m2 đất nông nghiệp) tọa lạc tại ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tứ cận khu đất:

    Hướng Bắc giáp xa lộ Trường Sơn;

    Hướng Nam giáp tường xây;

    Hướng Đông giáp tường xây;

    Hướng Tây giáp đất giao cho các thừa kế của bà Tánh

    (Khu đất có vị trí B trên sơ đồ bản vẽ kèm theo).

     - Ông Hồ Như Hải và bà Hồ Kim Yến có trách nhiệm bù hòan cho bà Hồ Thị Thanh Nga, Hồ Thị Thanh Hoa và bà Hồ Thị Thanh Diễm mỗi người 33.428.571 đồng.

    - Hủy một phần hợp đồng chuyển nhựơng quyền sử dụng đất ngày 29-02-2000 giữa bà Phạm Thị Hồng và bà Trần Thị Tánh đối với diện tích 253,3m2 đất tọa lạc tại ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, để chia thừa kế theo yêu cầu của các nguyên đơn (khu đất có vị trí B trên sơ đồ kèm theo).

    - Công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29-02-2000 giữa bà Phạm Thị Hồng và bà Trần Thị Tánh đối với diện tích 256,7m2 đất tọa lạc tại ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An (khu đất có vị trí A trên sơ đồ bản vẽ kèm theo).

    - Bà Phạm Thị Hồng có trách nhiệm hoàn trả cho các đồng thừa kế của bà Trần Thị Tánh 1.163.200.000 đồng.

    - Các thừa kế của bà Trần Thị Tánh có trách nhiệm giao trả cho ông Hồ Như Hải và bà Hồ Kim Yến 253,3m2 đất có vị trí B trên sơ đồ bản vẽ kèm theo; đồng thời các thừa kế của bà Tánh có nghĩa vụ tự giải tỏa đối với các tấm đan cửa xây dựng trên phần không gian của khu đất giao trả  cho ông Hải và bà Yến.

        2. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Trần Thị Tánh ngày 14-4-2000 (vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 61 QSDĐ/HTH.AB ngày 28-02-2000) để điều chỉnh, cấp lại cho đương sự theo quyết định của bản án này.

    Ngòai ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí định giá và trách nhiệm do chậm thi hành án.

    Ngày 09-10-2007 những người thừa kế của bà Trần Thị Tánh kháng cáo tòan bộ bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số79/2008/DS-PT ngày 13-3-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng cáo của những người thừa kế của bà Tánh, sửa án sơ thẩm số20/2007/DS-ST ngày 02-10-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương như sau:

    Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế đối với quyền sử dụng đất có diện tích 515m2 tọa lạc tại 20/8 ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương của các ông Hồ Như Hải, bà Hồ Kim Yến, Lê Thị Lê (có các đồng thừa kế tố tụng gồm: ông Hồ Thanh Quang, Hồ Thị Thanh Lệ, Hồ Thị Thanh Hằng).

    Dành quyền khởi kiện cho các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế di sản khác của ông Hồ Thanh Xuân đối với bà Phạm Thị Hồng

    Hủy quyết định của án sơ thẩm đối với phần kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Trần Thị Tánh vào ngày 14-4-2000 (vào sổ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 61 QSDĐ/HTH.AB ngày 28-02-2000).

    Quyết định của bản án sơ thẩm về chi phí đo đạc, xác minh, định giá không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục phát sinh hiệu lực pháp luật.

    Ngòai ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm anh Hồ Như Hải, chị Hồ Kim Yến, bà Hồ Thị Thanh Lệ khiếu nại.

    Tại Quyết định số36/2009/KN-DS ngày 12-02-2009 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại với nhận định:

    Nhà đất tranh chấp do vợ chồng ông Xuân, bà Hồng tạo lập. Năm 1993 ông Xuân chết, bà Hồng và các con của ông bà quản lý, sử dụng. Do ông Hồ Thanh Quang (em ruột ông Xuân) lấn chiếm một phần đất, nên xảy ra tranh chấp. Tại quyết định số320/QĐ-UB ngày 27-08-1994 của Ủy ban nhân dân huyện Thuận An (nay là huyện Dĩ An) buộc ông Quang phải trả lại đất cho bà Hồng. Ngày 28-02-2000 Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Hồng. Ngày 28-02-2000 bà Hồng chuyển nhượng tòan bộ nhà, đất cho bà Tánh với giá 300.000.000 đồng, bà Tánh đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích 256,7m2. Sau đó, ông Quang tiếp tục khiếu nại, nên tại Quyết định giải quyết tranh chấp số 3776/QĐ.UB ngày 13-11-2000, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương một lần nữa công nhận ông Xuân, bà Hồng có quyền sử dụng 515m2 đất tranh chấp.

    Như vậy, tuy đến thời điểm ông Xuân chết ông Xuân chưa kê khai đất, nhưng đất trên có nguồn gốc do vợ chồng ông Xuân đổi cho bà Điểu Thị Quẩn, sau khi đổi vợ chồng ông Xuân đã làm nhà ở ổn định và từ năm 1994 bằng Quyết định số320/QĐ-UB ngày 27-8-1994, Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An (cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở địa phương) đã công nhận ông Xuân, bà Hồng có quyền sử dụng diện tích đất này. Do đó, có căn cứ xác định nhà, đất và các tài sản do ông Xuân, bà Hồng tạo lập là tài sản chung của ông Xuân, bà Hồng. Ông Xuân chết không để lại di chúc, nên tài sản của ông Xuân phải được chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

    Tòa án cấp sơ thẩm xác định quyền sử dụng 1/2 diện tích đất đang tranh chấp là di sản thừa kế của ông Xuân để chia thừa kế, đồng thời xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hồng với bà Tánh vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng: Đến thời điểm ông Xuân chết năm 1993, vợ chồng ông Xuân, bà Hồng chưa kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28-02-2000 của Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương chỉ do bà Hồng đứng tên và viện dẫn không đúng nội dung Quyết định số 3776/QĐ.UB ngày 13-11-2000 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương; từ đó xác định quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp không phải là di sản thừa kế của ông Xuân để bác yêu cầu chia thừa kế của các đương sự là không đúng pháp luật.             

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Vợ chồng bà Phạm Thị Hồng và ông Hồ Thanh Xuân có 2 người con chung là anh Hồ Như Hải và chị Hồ Kim Yến. Năm 1993 ông Xuân chết không để lại di chúc, khi đó cha mẹ của ông Xuân là cụ Hồ Văn Lo và cụ Lê Thị Lê vẫn còn sống (cụ Lo chết năm 1998, cụ Lê chết năm 2004); cụ Lo còn chung sống với cụ Trần Thị Ren có 3 người con chung là bà Diễm, bà Nga và bà Hoa.

    Về tài sản: Nguồn gốc diện tích 515m2 đất có tranh chấp (tại 20/8 ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương) của cụ LâmSol (mẹ của bà Điểu Thị Quẩn), sau khi cụ LâmSol chết, ngày 11/08/1985 bà Điểu Thị Quẩn viết giấy trao đổi diện tích đất này cho vợ chồng bà Hồng, ông Xuân. Sau khi đổi đất vợ chồng bà Hồng, ông Xuân xây dựng một căn nhà cấp 4 trên đất để cả gia đình ở, ngòai ra, khi ông Xuân còn sống thì ông Xuân, bà Hồng còn tạo lập được một số tài sản như ti vi, cassette, xe honda. Sau khi ông Xuân chết, bà Hồng và các con của ông bà quản lý, sử dụng tòan bộ các tài sản trên.

    Do ông Hồ Thanh Quang (là em của ông Xuân) chiếm một phần đất của vợ chồng bà Hồng, nên phát sinh tranh chấp và bà Hồng đã khiếu nại đề nghị chính quyền địa phương giải quyết. Tại Quyết định số320/QĐ-UB ngày 27/08/1994, Ủy ban nhân dân huyện Thuận An (nay là huyện Dĩ An) buộc ông Quang tháo dỡ nhà xây dựng trái phép, trả lại đất cho bà Hồng. Ông Hồ Thanh Quang khiếu nại, tại Quyết định số 3776/QĐ.UB ngày 13-11-2000 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã: “bác đơn của ông Hồ Thanh Quang về việc khiếu nại đòi quyền quản lý sử dụng đất, diện tích 515m2 tọa lạc tại xã An Bình, huyện Dĩ An” đồng thời xác định “diện tích đất trên do bà Điểu Thị Quẩn làm giấy trao đổi cho vợ chồng bà Phạm Thị Hồng từ ngày 11/08/1985 đến nay”.

    Ngày 28-02-2000 Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ bà Hồng”. Ngày 29-02-2000 bà Hồng thỏa thuận chuyển nhượng tòan bộ nhà, đất cho bà Trần Thị Tánh với giá 300.000.000 đồng, bà Tánh đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích 256,7m2đất. Như vậy, tuy đến thời điểm ông Xuân chết, vợ chồng ông Xuân chưa kê khai, nhưng đất trên có nguồn gốc do vợ chồng ông Xuân đổi cho bà Điểu Thị Quẩn từ năm 1985, sau khi đổi vợ chồng ông Xuân đã làm nhà ở ổn định; ngày 28-02-2000 Ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ bà Hồng”. Quá trình giải quyết vụ án thì bà Hồng và những người thừa kế của ông Xuân đều khẳng định quyền sử dụng đối với diện tích đất trên là của ông Xuân, bà Hồng; còn bà Hồng chỉ là đại diện hộ gia đình đứng tên kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lời thừa nhận của các đương sự trên phù hợp với xác nhận của Ủy ban nhân tỉnh Bình Dương tại Quyết định số 3776/QĐ.UB ngày 13-11-2000. Lẽ ra, phải xác định tòan bộ diện tích đất trên là của ông Xuân, bà Hồng, do có yêu cầu chia thừa kế thì phải chia tài sản của ông Xuân theo quy định của pháp luật như Tòa án cấp sơ thẩm mới đúng. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng khi ông Xuân chết thì ông chưa đứng tên kê khai đất và bà Hồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi ông Xuân chết, đồng thời viện dẫn không đúng mục 1.1 chương II Nghị quyết số 02/2004/HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định số 3776/QĐ.UB ngày 13-11-2000 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương để cho rằng ông Xuân không có quyền sử dụng đất, từ đó bác yêu cầu chia thừa kế của những người thừa kế của ông Xuân là không đúng. Hơn nữa, Tòa án cấp phúc thẩm xác định giữa ông Xuân với bà Hồng có một số tài sản chung là động sản nhưng không giải quyết trong cùng vụ án mà tách ra để giải quyết thành vụ án khác là không giải quyết triệt để vụ án.

    Đối với hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Hồng với bà Tánh: Lẽ ra, phải xác định là hợp đồng vô hiệu vì bà Hồng tự ý chuyển nhượng cả phần tài sản của ông Xuân mà không được sự đồng ý của những người thừa kế của ông Xuân, nên lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu là của cả bà Hồng và bà Tánh vì khi chuyển nhượng bà Tánh biết diện tích đất có tranh chấp, bà Hồng chỉ là đại diện hộ gia đình kê khai đứng tên để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án bà Hồng vẫn chấp nhận chuyển nhượng cho bà Tánh 1/2 diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà, còn phần của ông Xuân thì đề nghị chia thừa kế, trong khi đó bà Tánh đồng ý nhận chuyển nhượng 1/2 diện tích đất của bà Hồng và yêu cầu bà Hồng bồi thường giá trị 1/2 diện tích đất theo giá thị trường. Trong trường hợp này cần ghi nhận sự tự nguyện của bà Hồng và bà Tánh về việc thực hiện một phần hợp đồng đối với phần diện tích đất mà bà Hồng có quyền sử dụng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm công nhận phần hợp đồng đối với phần đất bà Hồng có quyền sử dụng là không chính xác. Mặt khác, hợp đồng chuyển nhượng phần đất thuộc quyền sử dụng của ông Xuân giữa bà Hồng với bà Tánh là vô hiệu và cả bà Hồng với bà Tánh đều có lỗi, nhưng bà Tánh có lỗi nhiều hơn. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi hoàn toàn thuộc về bà Hồng, từ đó buộc bà Hồng bồi thường tòan bộ thiệt hại đối với phần hợp đồng bị hủy là chưa chính xác và đã có lợi cho bà Tánh. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm thì bà Hồng không kháng cáo và cũng không khiếu nại về vấn đề này, do đó khi xét xử lại vụ án thì không cần thiết phải xem xét về vấn đề nêu trên.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:  

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số79/2008/DS-PT ngày 13-3-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh;

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
    Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:

    Việc xác định di sản thừa kế và chia di sản thừa kế theo pháp luật như Tòa án cấp sơ thẩm là đúng; Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định quyền sử dụng đất đang tranh chấp không phải là di sản thừa kế để bác yêu cầu chia thừa kế của các đương sự là không đúng pháp luật.

     
    4313 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận