Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265131 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản"

    Số hiệu

    02/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản"

    Ngày ban hành

    11/01/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 11 tháng 01 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản (chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn). Các đương sự trong vụ án được xác định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm có:     

    Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huy Ngữ, sinh năm 1952; trú tại: Cộng hoà Ba Lan; tạm trú tại: nhà số 47 phố Lê Hồng Phong, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

    Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Minh, sinh năm 1958; trú tại: nhà số 116/10/38 đường Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Tạ Đình Nam, sinh năm 1977; trú tại: phòng 14-C5, khu tập thể Quỳnh Mai, phường Quỳnh Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

    NHẬN THẤY:

     Tại đơn khởi kiện ngày 10-5-2004 và các lời khai trong quá trình Toà án giải quyết vụ án, anh Nguyễn Huy Ngữ trình bày: tại bản án dân sự sơ thẩm số 180/LHST ngày 22-8-2003, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết cho anh và chị Nguyễn Thị Minh ly hôn. Về phần tài sản, Toà án ghi nhận: hai bên tự thoả thuận không yêu cầu Toà án xem xét. Do anh và chị Minh không thoả thuận được với nhau về việc phân chia tài sản chung, nên anh khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết. Theo anh Ngữ khai trước đây anh và chị Minh có thoả thuận là chị Minh giao cho anh số tiền 20.000 USD thì toàn bộ tài sản tại Hà Nội sẽ thuộc sở hữu của chị Minh và anh đã viết đơn đề nghị xin ly hôn ngày 25-5-2003. Sau khi Toà án giải quyết cho anh và chị Minh ly hôn, thì chị Minh không chuyển cho anh số tiền 20.000 USD theo thoả thuận nên anh yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung là căn nhà 3 tầng, 1 tum trên diện tích đất 56,5m2 tại số 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội (thuộc thửa đất số 177, tờ bản đồ số 7, khu F đứng tên chị Nguyễn Thị Minh tại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 31-12-1998, nhà ở này hiện chị Minh đang cho thuê). Anh đề nghị được hưởng 1/2 giá trị căn nhà và được hưởng toàn bộ hiện vật.

    Chị Nguyễn Thị Minh trình bày: khi ly hôn chị và anh Ngữ có tài sản chung là căn nhà số 38B Nam Ngư. Đầu năm 1995, anh Ngữ và chị thoả thuận là chị đưa cho anh Ngữ 500 triệu đồng và anh Ngữ lập “Giấy cam kết” ngày 16-02-1995 với nội dung: hẹn muộn nhất 6 tháng sau sẽ trả, nếu trong thời hạn 6 tháng anh Ngữ không hoàn lại số tiền trên thì sẽ bị mất căn nhà 38B Nam Ngư. Chị đã vay tiền Ngân hàng để chuyển cho anh Ngữ. Do anh Ngữ không thực hiện đúng cam kết nên đến cuối năm 1995, chị bán căn nhà 12 Nguyễn Quang Bích (là tài sản chung của vợ chồng) trả nợ tiền vay cùng một số khoản khác, số còn lại (khoảng hơn 100 cây vàng) chị mua căn nhà số 27C Vĩnh Phúc III, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Năm 1998, chị bán căn nhà số 27C Vĩnh Phúc III lấy tiền cho con là Minh Anh đi du học tại Mỹ. Như vậy, trong số tiền bán căn nhà 12 Nguyễn Quang Bích thì anh Ngữ đã sử dụng 2/3, nên khi chia căn nhà 38B Nam Ngư anh Ngữ chỉ được hưởng 1/3.   

    Đồng thời tại đơn đề ngày 25-5-2003, anh Ngữ và chị có thoả thuận: Chị cho anh Ngữ vay 20.000 USD sau này anh sẽ trả, còn toàn bộ tài sản hiện có tại Việt Nam (bao gồm cả căn nhà số 38B Nam Ngư) thuộc sở hữu của chị. Mặc dù, khoản tiền vay 20.000 USD chị chưa giao cho anh Ngữ, nhưng chị không đồng ý phân chia tài sản theo yêu cầu của anh Ngữ. Ngoài ra, chị còn cho rằng chị có nhiều công sức nên đề nghị chia cho chị phần nhiều hơn trong tài sản chung và xem xét về khoản tiền 500 triệu đồng mà anh Ngữ đã cam kết.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 233/LHST ngày 29-10-2004, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

    - Chấp nhận yêu cầu xin chia tài sản sau ly hôn của anh Nguyễn Huy Ngữ đối với chị Nguyễn Thị Minh tại số nhà 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    - Xác định nhà 3 tầng 1 tum trên diện tích đất 56,5m2 tại 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội thuộc thửa đất số 177 (1 phần), tờ bản đồ số 7 khu F đứng tên chị Nguyễn Thị Minh tại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 31-12-1998 là tài sản chung của chị Nguyễn Thị Minh và anh Nguyễn Huy Ngữ. Có giá trị xây dựng là 219.661.000 đồng và giá trị sử dụng đất là 4.237.500.000 đồng. Có tổng giá trị là 4.457.161.000 đồng.

    - Chia tài sản chung mỗi người 1/2 = 2.228.580.000 đồng.

    - Chia hiện vật như sau:

    Giành một lối đi chung về phía tay phải đứng từ cửa nhà nhìn vào kéo dài đến chân cầu thang của tầng 1, có chiều rộng 1m, chiều dài 8m, diện tích là 8m2. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 429.044.000 đồng.

    Mỗi người được chia 1/2 = 214.522.000 đồng và cùng được sử dụng ngõ đi chung này.

    Chia cho anh Ngữ các diện tích sau:

    + 1 phòng mặt phố Nam Ngư có chiều rộng 3,02m, chiều dài 7m về phía trái đứng từ cửa nhà nhìn vào có diện tích là 21,14m2. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 1.133.748.770 đồng.

    + Toàn bộ tầng 2 có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 915.273.334 đồng.

    Tổng cộng anh Ngữ được chia kể cả giá trị 1/2 ngõ đi chung có giá trị là 2.263.544.104 đồng.

    Chia cho chị Minh các diện tích sau:

    + Tầng 1 gồm: phòng cầu thang và phòng bếp có diện tích 27,39m. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 1.468.939.395 đồng.

    + Toàn bộ tầng 3 và cầu thang tầng 3  có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 491.523.333 đồng.

    + Toàn bộ tầng 4 và cầu thang lên tầng 4 gồm tum và 1 phòng thờ, sân...có giá trị xây dựng là 18.630.640 đồng.

    Tổng cộng chị Minh được chia kể cả giá trị 1/2 ngõ đi chung có giá trị là 2.193.615.368 đồng.

    - Anh Ngữ phải thanh toán chênh lệch về tài sản cho chị Minh số tiền là 34.964.104 đồng.

    - Anh Ngữ và chị Minh cùng có trách nhiệm xây ngăn ngõ đi chung, nếu bên nào không xây thì bên kia có quyền xây ngăn ngõ đi đó và được sở hữu bức tường xây ngăn.

    - Anh Ngữ và chị Minh cùng được sử dụng chung ngõ đi và cầu thang từ tầng 1 lên tầng 2.

    - Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.

     Ngày 10-11-2004, anh Nguyễn Huy Ngữ  kháng cáo đề nghị được chia toàn bộ căn nhà số 38B Nam Ngư; buộc chị Minh giải trình về việc bán căn nhà 12 Nguyễn Quang Bích, căn nhà 27C Vĩnh Phúc III và xác định căn nhà số 116/10/38 đường Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, ôtô và các tài sản khác là tài sản chung để phân chia theo quy định của pháp luật. Tại phiên Toà phúc thẩm, anh Ngữ thay đổi nội dung kháng cáo và chỉ đề nghị được chia hiện vật là toàn bộ nhà số 38B Nam Ngư, còn các yêu cầu khác anh xin rút kháng cáo.

    Ngày 04-11-2004, chị Nguyễn Thị Minh kháng cáo đề nghị bác đơn khởi kiện của anh Ngữ.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-4-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị Nguyễn Thị Minh.

    Bác kháng cáo của anh Nguyễn Huy Ngữ; giữ nguyên quyết định của bản án số 233/LHST ngày 29-10-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

    Áp dụng Điều 95 Luật hôn nhân gia đình; Thông tư 01/TTLT ngày  19-6-1997.

     - Chấp nhận yêu cầu xin chia tài sản sau ly hôn của anh Nguyễn Huy Ngữ đối với chị Nguyễn Thị Minh tại số nhà 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

    - Xác định nhà 3 tầng 1 tum trên diện tích đất 56,5m2 tại 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội thuộc thửa đất số 177 (1 phần), tờ bản đồ số 7 khu F đứng tên chị Nguyễn Thị Minh tại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 31-12-1998 là tài sản chung của chị Nguyễn Thị Minh và anh Nguyễn Huy Ngữ. Có giá trị xây dựng là 219.661.000 đồng và giá trị sử dụng đất là 4.237.500.000 đồng. Có tổng giá trị là 4.457.161.000 đồng.

    - Chia tài sản chung mỗi người 1/2 = 2.228.580.000 đồng.

    - Chia hiện vật như sau:

    Giành một lối đi chung về phía tay phải đứng từ cửa nhà nhìn vào kéo dài đến chân cầu thang của tầng 1, có chiều rộng 1m, chiều dài 8m, diện tích là 8m2. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 429.044.000 đồng.

    Mỗi người được chia 1/2 = 214.522.000 đồng và cùng được sử dụng ngõ đi chung này.

    Chia cho anh Ngữ các diện tích sau:

    + 1 phòng mặt phố Nam Ngư có chiều rộng 3,02m, chiều dài 7m về phía trái đứng từ cửa nhà nhìn vào có diện tích là 21,14m2. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 1.133.748.770 đồng.

    + Toàn bộ tầng 2 có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 915.273.334 đồng.

    Tổng cộng anh Ngữ được chia kể cả giá trị 1/2 ngõ đi chung có giá trị là 2.263.544.104 đồng.

    Chia cho chị Minh các diện tích sau:

    + Tầng 1 gồm: phòng cầu thang và phòng bếp có diện tích 27,39m. Có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 1.468.939.395 đồng.

    + Toàn bộ tầng 3 và cầu thang tầng 3  có giá trị xây dựng và giá trị sử dụng đất là 491.523.333 đồng.

    + Toàn bộ tầng 4 và cầu thang lên tầng 4 gồm tum và 1 phòng thờ, sân...có giá trị xây dựng là 18.630.640 đồng.

    Tổng cộng chị Minh được chia kể cả giá trị 1/2 ngõ đi chung có giá trị là 2.193.615.368 đồng.

    - Anh Ngữ phải thanh toán chênh lệch về tài sản cho chị Minh số tiền là 34.964.104 đồng.

    - Anh Ngữ và chị Minh cùng có trách nhiệm xây ngăn ngõ đi chung, nếu bên nào không xây thì bên kia có quyền xây ngăn ngõ đi đó và được sở hữu bức tường xây ngăn.

    - Anh Ngữ và chị Minh cùng được sử dụng chung ngõ đi và cầu thang từ tầng 1 lên tầng 2.

    - Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí theo quy định của pháp luật.

    Tại Quyết định số142/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 24-11-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-04-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận định:

    Quan hệ hôn nhân giữa anh Ngữ và chị Minh đã được Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử tại bản án ly hôn sơ thẩm số 180/LHST ngày 22-8-2003 đã có hiệu lực pháp luật. Theo bản án trên thì anh Ngữ đang ở Ba Lan, hai bên tự giải quyết về tài sản nếu không xong sẽ đề nghị Toà án xem xét sau. Nên ngày 18-5-2004 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết phần tài sản giữa anh Ngữ và chị Minh. Cụ thể: Anh Ngữ và chị Minh tạo lập được một khối tài sản như: Nhà 42 Nam Ngư, nhà 38B Nam Ngư, nhà 12 Nguyễn Quang Bích đều ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và nhà 27C Vĩnh Phúc III, Ba Đình, Hà Nội, đến khi anh Ngữ xin ly hôn thì chỉ còn nhà 38B Nam Ngư. Năm 1995, anh Ngữ viết “Giấy cam kết” nhận 500 triệu đồng của chị Minh trong thời hạn 6 tháng sẽ trả đủ cho chị Minh, nếu không sẽ bị mất nhà 38B Nam Ngư (BL52). Số tiền trên, chị Minh đã mua hàng gửi cho anh Ngữ sang Ba Lan để anh Ngữ bán. Cuối năm 1995 chị Minh bán nhà 12 Nguyễn Quang Bích là tài sản chung của vợ chồng để trả nợ Ngân hàng khoản tiền 500 triệu đồng nêu trên và các khoản khác, còn lại hơn 100 cây vàng, chị Minh mua nhà 27C Vĩnh Phúc, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình. Năm 1998, chị Minh lại bán nhà 27C Vĩnh Phúc để lấy tiền cho con là cháu Minh Anh đi du học. Tại biên bản lấy lời khai ngày  02-7-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, chị Minh khai: “Tôi khẳng định khi ly hôn vợ chồng chỉ còn lại một khối tài sản duy nhất là nhà đất tại 38B Nam Ngư, Hà Nội” (BL69), chị Minh còn cho rằng anh Ngữ đã cho chị nhà 38B Nam Ngư thể hiện tại “Đơn đề nghị”  ngày 25-5-2003 của anh Ngữ: “Tôi đã nhận đủ số tiền của vợ tôi theo yêu cầu của tôi; đồng thời tôi cũng đã nhất trí rằng, kể từ bây giờ, toàn bộ tài sản hiện có của hai vợ chồng ở Việt Nam đều thuộc sở hữu của vợ tôi” (BL53); nên đến ngày 31-12-1998 chị Minh được đứng tên sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại 38B Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (BL20, 21); nhưng tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội anh Ngữ xác định việc thoả thuận như trên là có điều kiện, chị Minh phải gửi sang Ba Lan cho anh 20.000 USD thì toàn bộ tài sản của vợ chồng ở Việt Nam (trong đó có ngôi nhà 38B Nam Ngư) mới thuộc sở hữu của chị Minh (BL68) không phải anh nhờ chị Minh vay hộ 20.000 USD như chị Minh đã khai (BL70). Tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội cả anh Ngữ và chị Minh đều xác nhận chị Minh cũng chưa đưa khoản tiền trên cho anh Ngữ (BL68, 69, 70). Án dân sự sơ thẩm số 233/LHST ngày 29-10-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-04-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đều xác định nhà 38B Nam Ngư nêu trên thuộc tài sản chung vợ chồng.

    Xét việc chia hiện vật: án sơ thẩm và phúc thẩm đều chia cho anh Ngữ được sở hữu phòng 21,14m2 tầng 1 mặt đường và toàn bộ tầng 2 (cầu thang từ tầng 1 lên tầng 2 sử dụng chung), còn chị Minh chỉ được chia 27,39m2 phòng bếp và diện tích phòng cầu thang phía trong tầng 1, tầng 3 và tầng 4 (phần tum nhà) là chưa hợp lý. Xét về giá trị các phòng mỗi bên được chia, Toà án hai cấp đều lấy giá trị bình quân chung 75 triệu đồng/1m2 là không công bằng, chưa đảm bảo quyền lợi giữa hai bên đương sự.

    Về nhu cầu nhà ở: Tại phiên toà sơ thẩm ngày 29-10-2004 anh Ngữ nêu: “Theo tôi nên bán đi và chia tiền” (BL89), vì vậy, Toà án nên chia nhà cho một bên, bên nhận bằng hiện vật phải thanh toán bằng giá trị cho bên kia tương ứng với phần nhà đất được chia để đảm bảo ổn định đời sống cho các bên đương sự.

    Về tố tụng: Trong hồ sơ vụ án, phần xét xử phúc thẩm có 43 bút lục, không có quyết định hoãn phiên Toà phúc thẩm, cũng không có giấy triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai cho các bên đương sự theo quy định tại Điều 208, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-04-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của chị Minh, là không đảm bảo quyền tố tụng của đương sự.  

    Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ án dân sự sơ thẩm số 233/LHST ngày 29-10-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-04-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung.

     Tại phiên toà giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 233/LHST ngày 29-10-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-4-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Về nội dung:

    Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng anh Nguyễn Huy Ngữ và chị Nguyễn Thị Minh có nhiều nhà, đất, nhưng sau đó chị Minh đã bán và có giao cho anh Ngữ một phần tiền. Đến khi khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, cả anh Ngữ và chị Minh đều thừa nhận tài sản chung của vợ chồng chỉ là căn nhà số 38B Nam Ngư, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định căn nhà 38B Nam Ngư là tài sản chung của anh Ngữ và chị Minh để phân chia là có căn cứ, đúng pháp luật.

    Tuy nhiên, khi chia hiện vật là nhà, đất, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã phân chia hiện vật cho cả hai bên (phân chia cho anh Ngữ nhận phòng mặt phố tầng 1, diện tích 21,14mvà toàn bộ tầng 2, còn chị Minh nhận phòng cầu thang, phòng bếp tầng 1 diện tích 27,39m2, toàn bộ tầng 3 và tầng 4 gồm tum, phòng thờ, sân), nhưng không phân định rõ về quyền sở hữu, sử dụng đối với các công trình khác như hệ thống điện; hệ thống cấp, thoát nước và các công trình ngầm là chưa giải quyết triệt để việc chia tài sản chung và khó khăn cho việc thi hành án.

    Đối với diện tích nhà, đất tại tầng 1: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phân chia cho anh Ngữ nhận phần diện tích nhà phía trước có mặt phố còn chị Minh nhận phần diện tích nhà phía sau không có mặt phố, trong khi vẫn tính giá trị quyền sử dụng đất mỗi bên được chia theo mức giá chung là 75.000.000 đồng/1m2 (theo biên bản định giá ngày 18-8-2004) là không công bằng, không đảm bảo quyền lợi về tài sản cho đương sự. Trường hợp này nếu phải chia nhà, đất cho đương sự thì phải căn cứ vào hệ số giá trị nhà, đất mặt phố và nhà, đất trong ngõ theo quy định chung mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự.    

    Ngoài ra, trong thực tế thì cả hai bên đương sự đều không trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất có tranh chấp. Anh Ngữ sinh sống tại Ba Lan, còn chị Minh sinh sống ổn định tại thành phố Hồ Chí Minh và đang cho thuê toàn bộ căn nhà này. Lẽ ra, phải xác minh rõ về nhu cầu sử dụng tài sản của anh Ngữ, chị Minh để phân chia hiện vật hoặc phân chia bằng giá trị cho các đương sự thì mới đảm bảo giá trị tài sản khi phân chia. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ vấn đề này, nhưng lại phân chia cho mỗi bên một phần nhà là chưa hợp lý, hợp tình và không đảm bảo giá trị sử dụng tài sản của các đương sự.

    Về tố tụng:

    Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập chị Minh để xét xử phúc thẩm hai lần vào các ngày 17-3-2005 và 21-4-2005, nhưng chị Minh đều vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên toà. Như vậy, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, chị Minh có kháng cáo nhưng vẫn vắng mặt, nên Toà án cấp phúc thẩm xác định chị Minh từ bỏ kháng cáo và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị Minh (theo khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự) là đúng pháp luật. Tại Quyết định kháng nghị số142/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 24-11-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm vi phạm thủ tục tố tụng là không chính xác.

    Trong thực tế ngày 01-01-2002, anh Tạ Đình Nam có ký hợp đồng thuê nhà số 38B Nam Ngư với chị Minh, thời hạn thuê nhà đến năm 2007. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nam đề nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi cho anh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đưa anh Nam tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhưng không giải quyết yêu cầu của anh Nam là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

    Vì các lẽ nêu trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,           

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Chấp nhận kháng nghị số142/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 24-11-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

    2. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 81/DSPT ngày 21-4-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 233/LHST ngày 29-10-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản (chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn) giữa nguyên đơn là anh Nguyễn Huy Ngữ với bị đơn là chị Nguyễn Thị Minh và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Tạ Đình Nam;

    3. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Các Tòa án đã không xác định nhu cầu sử dụng tài sản của hai bên đương sự để quyết định phân chia bằng hiện vật hay bằng giá trị cho phù hợp và không giải quyết quyền lợi của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

     

     
    3015 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận