Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn"

Chủ đề   RSS   
  • #265203 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn"

    Số hiệu

    22/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn"

    Ngày ban hành

    10/07/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 10 tháng 7 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa:

    Nguyên đơn: Bà Chu Thị Long sinh năm 1956; trú tại số nhà 5b, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

    Bị đơn: Ông Hoàng Quang Thắng sinh năm 1959; trú tại nhà số 5, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Mạc Tiệp Dĩnh (tức Mạc Thị Mai) sinh năm 163; trú tại số nhà 5b, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

    NHẬN THẤY:

    1. Về hôn nhân:

    Bà Chu Thị Long và ông Hoàng Quang Thắng kết hôn với nhau năm 1984, có một người con chung là Hoàng Thị Thanh Nhàn sinh năm 1986, Ông bà chung sống được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn vì lý do con riêng của bà Long và từ năm 1994, do ông Thắng có quan hệ với bà Chu Thị Phương (như vợ chồng), nên bà Long xin ly hôn và ông Thắng cũng đồng ý ly hôn.

    2. Về tài sản chung:

    Theo bà Long khai: tài sản chung vợ chồng có một căn nhà trên thửa đất 150m2 tại số 5, ngõ 6, phường Vĩnh Trại; sau đó bà thay đổi lời khai và cho rằng diện tích đất của vợ chồng chỉ có 120m2. Các tài sản khác gồm có: 1 tủ đứng; 1 tủ sắt; 3 chiếc giường; 1 xe đạp; 1 xe máy 50. Ngoài ra vợ chồng còn có 1 mảnh đất ông Thắng đã bán được 122.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân. Khi ly hôn và yêu cầu đòi chia tài sản nhà đất tại số 5, ngõ 6, phường Vĩnh Trại và số tiền mà ông Thắng đã bán đất.

    Ông Thắng khai: về số tiền bán đất mà bà Long khai, ông đã chi tiêu cho gia đình hết; còn phần đất ông mua của ông Nông Đức Nghinh trước đây ông khai là mua 150m2, nhưng sau này ông cho rằng giữa ông và ông Nghinh có thỏa thuận để 30m2 làm lối đi chung. Tiền mua đất và xây dựng nhà ở, trong đó ông đã bỏ ra một khoản tiền riêng 25.000.000đồng. Ông đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản theo sự đóng góp của mỗi bên và ông yêu cầu được chia 2/3 trị giá nhà đất; được lấy toàn bộ nhà đất và thanh toán giá trị cho bà Long. Sau này (năm 2000), trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà Long đã chuyển nhượng phần nhà đất mà bà Long được chia cho bà Mạc Thị Dĩnh (tức Mạc Thị Mai) nên ông Thắng đề nghị hủy phần hợp đồng chuyển nhượng nhà đất lập ngày 03-4-2000 giữa bà Long và bà Dĩnh.

    Tại bản án ly hôn, chia tài sản khi ly hôn sơ thẩm số18/HN-ST ngày 30-12-1997, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn quyết định:

    1- Chấp nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Chu Thị Long và anh Hoàng Quang Thắng.

    2- Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Thanh Nhàn 11 tuổi cho chị Chu Thị Long quản lý nuôi dưỡng giáo dục cháu. Chị Long không yêu cầu anh Thắng đóng góp phí tổn nuôi con. Anh Thắng có quyền thăm nom con chung, chị Long không được ngăn cản.

    3- Về tài sản chung: Chia ngôi nhà số 5, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn như sau:

    Chị Chu Thị Long được ở 1 gian buồng ở giữa hướng Đông giáp đường vào nhà 1 chiều là 2,6m x 3,5m = 1m2 và một gian đằng sau 6,35m x 3,2m = 20,32m2 và toàn bộ  công trình phụ. Tài sản trong nhà chị Long được sở hữu 1 tủ gỗ 2 buồng, 1 giường 1,5m, 1 xe đạp Phượng Hoàng và 5.000.000 đồng do anh Thắng đền bù chênh lệch xe máy.

    Anh Hoàng Quang Thắng được chia một gian buồng ở giữa hướng Tây một chiều 3,5m x 2,4m = 8,4m2, một lối đi ở giữa hai gian buồng là 0,9m x 3,5m = 3,15m2 và 1 gian đằng trước 6,35m x 4m= 25,4m2 và giếng nước.

    Ranh giới đất sử dụng ngoài phạm vi nhà chia: Lấy điểm giữa của tường nhà hướng đông (10,65m : 2 = 5,32m) kéo vuông góc với tường kéo thẳng ra cổng làm phần ngăn cách giữa hai bên sử dụng. Chị Long ở hướng Bắc và anh Thắng ở hướng Nam có tường rào bao quanh.

    Tài sản trong nhà: Anh Thắng được sở hữu 01 xe cúp 50, 01 tủ sắt, 01 tủ lệch có gương; 01 giường 1,2m. Nhưng phải đền bù cho chị Long số tiền 5.000.000 đồng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của đương sự.

    Ngày 10-01-1998 ông Thắng kháng cáo toàn bộ tài sản nhà đất là của ông nên không chấp nhận chia.

    Tại bản án ly hôn, chia tài sản khi ly hôn phúc thẩm số05/HN-PT ngày 11-3-1998, Toàn án nhân dân tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

    + Xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Chu Thị Long và anh Hoàng Quang Thắng.

    + Về con chung: Tạm giao cháu Hoàng Thị Thanh Nhàn sinh năm 1986 cho chị Chu Thị Long trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục, anh Thắng chưa phải đóng góp phí tổn nuôi con, vì chị Long không yêu cầu. Anh Thắng có quyền đi lại thăm con chung không ai được ngăn cản.

    + Về tài sản chung:

     Xử chia ngôi nhà số 5, ngõ 6 đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thị xã Lạng Sơn như sau:

    Chị Chu Thị Long được ở 1 gian buồng ở giữa hướng Đông giáp đường vào nhà 1 chiều là 2,6m x 3,5m = 9,1m2 và một gian đằng sau 6,35m x 3,2m = 20,32m2 và toàn bộ  công trình phụ. Tài sản trong nhà chị Long được sở hữu 1 tủ gỗ 2 buồng, 1 giường 1,5m, 1 xe đạp Phượng Hoàng và 5.000.000 đồng do anh Thắng đền bù chênh lệch xe máy.

    Anh Hoàng Quang Thắng được chia một gian buồng ở giữa hướng Tây một chiều 3,5m x 2,4 m= 8,4m2, một lối đi ở giữa hai gian buồng là 0,9m x 3,5m = 3,15m2 và 1 gian đằng trước 6,35m x 4m= 25,4m2 và giếng nước.

    Ranh giới đất sử dụng ngoài phạm vi nhà chia: Lấy điểm giữa của tường nhà hướng đông (10,65m : 2 = 5,32m) kéo vuông góc với tường kéo thẳng ra cổng làm phần ngăn cách giữa hai bên sử dụng. Chị Long ở hướng Bắc và anh Thắng ở hướng Nam có tưởng rào bao quanh.

    Tài sản trong nhà: Anh Thắng được sở hữu 01 xe cúp 50, 01 tủ sắt, 01 tủ lệch có gương; 01 giường 1,2m, nhưng phải đền bù cho chị Long số tiền 5.000.000 đồng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Thắng có đơn khiếu nại.

    Tại công  văn số941/BC-DS ngày 28-9-2000, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên, vì cho rằng Tòa án chưa xem xét 2 phòng gác xép diện tích 10m2 và 6,4m2 để giao cho các đương sự, đồng thời xem xét lại giá trị một số tài sản khác.

    Tại Quyết định số 103/KN ngày 25-10-2000, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 05/HNPT ngày 11-3-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn với nhận định:

    Việc phân chia tài sản cho các bên, Tòa án chưa xem xét thực tế nguồn gốc và công sức đóng góp vào việc xây dựng căn nhà hiện nay nên làm thiệt thòi quyền lợi của đương sự.

    Việc chia hiện vật phía chị Long đã đi lấy chồng khác trong khi anh Thắng đang nuôi con, nhưng án sơ thẩm và phúc thẩm lại chia cho chị Long và chị Long bán cho người khác gây khó khăn cho đời sống bố con anh Thắng.

    Vì vậy, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy phần tài sản bản án sơ thẩm số18/HN-ST ngày 30-12-1997 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn và hủy phần tài sản tại bản án phúc thẩm nêu trên giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số 61/GĐT ngày 28-3-2001, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã hủy phần chia tài sản chung của bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại bản án dân sự về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sơ thẩm số02/LH-ST ngày  30-6-2001, Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định:

    1- Công nhận sự thỏa thuận của chị Chu Thị Long và anh Hoàng Quang Thắng về một số tài sản sau:

    - Chị Chu Thị Long được sở hữu: 1 xe đạp phượng hoàng, 1 tủ gỗ 2 buồng, 1 giường 1,5m, có tổng trị giá là 1.070.000 đồng (số tài sản này chị Long đang quản lý) và số tiền 3.000.000 đồng do anh Thắng trả tiền chênh lệch về xe máy.

    - Anh Hoàng Quang Thắng được sở hữu: 01 tủ sắt 2 buồng, 1 tủ lệch có gương, 1 giường 1,2 m, có tổng trị giá là 1.100.000 đồng và 1 xe máy 50 (số tài sản này anh Thắng đang quản lý). Anh Thắng phải trả cho chị Long 3.000.000 đồng tiền chênh lệch về xe máy.

    Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Long có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Thắng chậm trả cho chị Long khoản tiền nêu trên thì hàng tháng anh Thắng phải chịu tiền lãi theo mức lãi xuất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

    2- Ngôi nhà số 5, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn có tổng trị giá là 65.541.613 đồng, xử chia như sau:

    - Chị Chu Thị Long được sở hữu một gian buồng ở gian giữa hướng Đông giáp đường vào nhà có diện tích 2,6 m x 3,5m= 9,10m2, một gian ở đằng sau có diện tích 6,35 m x 3,2 m = 20,32m2 của tầng I nhà chính và toàn bộ công trình phụ.

    - Anh Hoàng Quang Thắng được sở hữu một gian buồng ở giữa gian hướng Tây, có diện tích 3,5m x 2,4m = 8,4m2; một lối đi giữa 2 gian buồng có diện tích 0,9 m x 3,5 m= 3,15 m2; một gian đằng trước có diện tích 6,35m x 4m =25,40m2 của tầng 1 nhà chính và giếng nước.

    Tường ranh giới giữa phần của chị Long và phần của anh Thắng thuộc sở hữu chung của hai bên.

    Chiếu thẳng từ tim tường ranh giới ở tầng 1 nhà chính lên khoảng không phía trên, phần nào (thuộc gác xép, tum, buồng giáp tum, khoảng không gian trên nóc nhà) nằm trên phần chị Long được chia thì thuộc sở hữu của chị Long, phần nào nằm trên phần anh Thắng thì thuộc sở hữu của anh Thắng.

    Ranh giới đất sử dụng ngoài phạm vi nhà chia: lấy điểm giữa của tường nhà hướng đông (10,65m : 2 = 5,32m) kéo vuông góc với tường kéo thẳng ra cổng làm phần ngăn cách giữa hai bên sử dụng. Chị Long ở hướng Bắc, anh Thắng ở hướng Nam có tường rào bao quanh.

    Phần nhà đất, công trình kiến trúc... chị Long được chia có giá trị 30.011.558 đồng, trên diện tích đất 59,8m2.

    Phần nhà đất, công trình kiến trúc... anh Thắng được chia có giá trị 35.444.055 đồng, trên diện tích đất 88,94m2.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên truyền quyền kháng cáo của đương sự.

    Ngày 02-7-2001, ông Thắng kháng cáo có nội dung: không đồng ý chia đôi căn nhà, đồng thời đề nghị Tòa án xem xét việc bà Long đã bán phần diện tích đất cho bà Dĩnh.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 126/DSPT ngày 24-7-2002, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội quyết định:

    Hủy một phần bản án sơ thẩm ly hôn số02/LH-ST ngày 30-6-2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ kiện tranh chấp tài sản sau ly hôn, nguyên đơn Chu Thị Long, bị đơn Hoàng Quang Thắng cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn để định giá lại nhà đất và giải quyết vụ kiện theo thủ tục chung.

    Các phần khác của án sơ thẩm như phần tài sản thỏa thuận và các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

    Tại bản án sơ thẩm về tranh chấp tài sản sau ly hôn số01/ST-LH ngày 30-6-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định:

    Xử phân chia tài sản nhà và đất ở giữa chị Chu Thị Long với anh Hoàng Quang Thắng như sau:

    1- Nhà số 5, ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo thỏa thuận còn giá trị là 42.000.000 đồng, chia xử như sau:

    + Chị Chu Thị Long được sở hữu 1 gian buồng ở giữa hướng đông có diện tích 2,6m x 3,5m = 9,1m2; 1 gian đằng sau diện tích 6,35m x 3,2m = 20,32m của tầng 1 nhà chính và toàn bộ công trình phụ.

    + Anh Hoàng Quang Thắng được sở hữu 1 gian buồng ở giữa hướng tây có diện tích: 3,5m x 2,4m = 8,4m2; 1 gian đằng trước có diện tích 6,35m x 4m = 25,4m2; 1 lối đi giữa 2 gian buồng có diện tích 0,9m x 3,5m = 3,15m2 của tầng 1 nhà chính và 1 giếng nước.

    Về ranh giới nhà: tường ranh giới giữa phần chị Long và phần anh Thắng được chia thuộc sở hữu chung. Và chiếu thẳng từ tim tường ranh giới tầng 1 nhà chính lên khoảng không phía trên (gồm gác xép, tum, buồng giáp tum, khoảng không phía trên nhà), phần nào nằm trên phần chị Long được chia của tầng 1 thì thuộc sở hữu của chị Long; phần nào nằm trên phần đất anh Thắng được chia của tầng 1 thì thuộc sở hữu của anh Thắng.

    2- Về phần đất ngoài phạm vi nhà ở chính được chia như sau: Lấy điểm giữa của tường nhà hướng đông (10,65m : 2) kéo vuông góc với tường nhà thẳng ra cổng làm ranh giới đất giữa hai bên: Phần đất ở hướng bắc thuộc quyền quản lý, sử dụng của chị Long; phần đất ở hướng Nam thuộc quyền quản lý, sử dụng của anh Thắng. Đất có tường rào bao quanh.

    Trị giá phần nhà, đất chị Long được chia khoảng hơn 42.000.000 đồng; anh Thắng được chia khoảng hơn 74.000.000 đồng (không tính giá trị công trình phụ, bếp, giếng nước, tường rào...)

    3- Việc chuyển nhượng nhà, đất giữa chị Long và bà Dĩnh không xem xét trong bản án này.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 08-7-2003 ông Thắng kháng cáo có nội dung như sau:

    - Xin được chia toàn bộ nhà đất để ở.

    - Yêu cầu định giá lại giá trị quyền sử dụng đất và phải có đủ các bên tham gia thống nhất giá và ký xác nhận.

    Đề nghị xác nhận trong diện tích 150m2 đất có tranh chấp có 30m2 đất là lối đi chung.

    Đề nghị hủy phần mua bán nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh lập ngày 03-4-2000.

    Tại bản án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phúc thẩm số 86/DSPT ngày 29-6-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Hoàng Quang Thắng, sửa bản án sơ thẩm số01/ST-LH ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn cụ thể như sau:

     Giao cho anh Hoàng Quang Thắng được sỡ hữu toàn bộ ngôi nhà số 5 trên diện tích 150m2 đất tọa lạc tại ngõ 6, đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn có tổng giá trị  390.900.000 đồng (ba trăm chín mươi triệu sáu trăm nghìn đồng chẵn). Trong đó giá trị nhà là 45.600.000đ, giá trị đất là 345.000.000đ.

    Buộc anh Hoàng Quang Thắng phải có trách nhiệm thanh toán cho chị Chu Thị Long tổng giá trị nhà và đất được chia trị giá là 143.078.000đ (một trăm bốn ba triệu không trăm bảy tám ngàn đồng chẵn). Trong đó giá trị nhà là 20.212.000đ và giá trị đất là 122.866.000đ.

    Anh Thắng chỉ được sỡ hữu toàn bộ số tài sản trên sau khi đã thanh toán đủ cho chị Long số tiền là 143.078.000đ.

    - Bác các yêu cầu khác của ông Hoàng Quang Thắng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án của đương sự.

    Sau khi xét xử phúc thẩm ông Thắng khiếu nại bản án phúc thẩm với các nội dung sau:

    - Số tiền riêng của ông sau khi bỏ ra mua đất, xây nhà bằng 26% tổng giá trị tài sản (nhà đất), nhưng Tòa án không trừ trước khi chia tài sản chung vợ chồng.

    - Tòa án cấp phúc thẩm tính giá trị đất 2.300.000đ/1m2 là quá cao không đúng giá thực tế.

    - Diện tích 150m2 đất ông và bà Long sử dụng, năm 1993 ông mua có 120m2, còn 30m2 ông và ông Nghinh đã thỏa thuận để làm lối đi chung; nay gia đình ông Nghinh chuyển nhượng phần đất còn lại cho bà Đinh Thị Mai thì bà Mai đi lối đi chung trên phần đất 30m2 này, nhưng Tòa án lại giao cho ông 30m2 đất này buộc thanh toán bằng tiền cho bà Long là không đúng.

    Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh ông có kháng cáo đề nghị hủy, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

    Bà Đinh Thị Mai (là người có nhà đất liền kề với nhà đất của vợ chồng ông Thắng, bà Long) cũng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm với lý do diện tích đất của vợ chồng ông Thắng mua năm 1993 có 120m2 đã nộp thuế 120m2 đất trên 10 năm, phần đất còn lại 30m2 là đất lối đi chung giữa chủ đất cũ với gia đình ông Thắng nay thuộc đất làm lối đi chung của xóm và gia đình bà, nhưng Tòa án lại giao cho ông Thắng nên gia đình bà không có lối đi.

    Tại Quyết định số87/2007/KN-DS ngày 23-5-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 86/DSPT ngày 29-6-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số01/ST-LH ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

    “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà, đất có tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Hoàng Quang Thắng và bà Chu Thị Long để chia tài sản khi ly hôn là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ và chưa xem xét đến diện tích làm lối đi đang có tranh chấp, nhưng lại xác định vợ chồng ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng diện tích 150m2 đất là chưa đủ căn cứ; bởi vì:

    Trong quá trình giải quyết vụ án ban đầu cả ông Thắng và bà Long đều thừa nhận diện tích đất của vợ chồng là 150m2. Nhưng sau đó cả ông Thắng và bà Long đều khai diện tích đất chung chỉ là 120m2. Theo nội dung giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23-3-1993, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hợp Thành ngày 30-3-1993 thì diện tích đất ông Nghinh chuyển nhượng cho ông Thắng chỉ là 120m2; theo đơn xác nhận diện tích đất đang sử dụng đề ngày 03-01-1998 thì ông Thắng kê khai diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông Nghinh chỉ có 120m2; Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trại cũng xác nhận diện tích ông Thắng được chuyển nhượng là 120m2; khi ông Thắng khai nộp thuế sử dụng đất ngày 09-12-1994, được Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trại xác nhận với diện tích ông Thắng sử dụng riêng là 120m2, diện tích phải nộp thuế 120m2, diện tích 30m2 là đất sử dụng chung với hộ khác; Chi cục thuế thị xã Lạng Sơn cũng xác nhận diện tích ông Thắng phải nộp thuế đất là 120m2  với số tiền nộp thuế là 44.200 đồng (có biên lai nộp thuế ngày 12-5-1995). Ngoài ra, tại biên bản định giá ngày 06-11-2003 thì diện tích đo đạc thực tế mà vợ chồng ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng là 169m2. Lẽ ra phải xác minh làm rõ về diện tích đất mà ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng, từ đó mới có đủ cơ sở giải quyết vụ án.

    Mặt khác, tại thời điểm bản án dân sự phúc thẩm số 05/DSPT ngày 11-3-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn có hiệu lực pháp luật, ngày 03-4-2000 bà Long đã lập hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ phần nhà, đất được chia cho bà Dĩnh và sau khi nhận sang nhượng bà Dĩnh đã quản lý, sử dụng, đã đầu tư sửa chữa lại nhà để ở; nhưng sau đó, khi xét xử phúc thẩm ngày 29-6-2004 đã quyết định giao cho ông Thắng sỡ hữu, sử dụng toàn bộ nhà, đất trong đó có phần của bà Dĩnh đã mua và sử dụng. Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết quan hệ hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh là không đúng (mặc dù bà Dĩnh có tham gia tố tụng và các đương sự có yêu cầu xem xét giải quyết quan hệ này).

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số01/ST-LH ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà, đất (đang có tranh chấp) là do ông Thắng, bà Long tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng ông Thắng và bà Long để chia khi ly hôn là có căn cứ. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án ban đầu ông Thắng và bà Long khai diện tích của vợ chồng là 150m2, nhưng sau đó cả ông Thắng và bà Long đều khai diện tích đất chỉ là 120m2. Tại “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 23-5-1993 (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hợp Thành ngày 30-3-1993) thì diện tích đất ông Nông Đức Nghinh chuyển nhượng cho ông Thắng cũng chỉ là 120m2.

    Quá trình quản lý, sử dụng nhà đất ông Thắng kê khai và chính quyền địa phương cũng xác nhận ông Nghinh và ông Thắng thỏa thuận để làm lối đi chung. Thực tế ông Thắng cũng chỉ kê khai nộp thuế đối với diện tích 120m2 đất với số tiền là 44.200 đồng (theo biên lai nộp thuế ngày 12-5-1995).

    Với các chứng cứ trên đây có đủ căn cứ xác định theo các giấy tờ về nhà đất thì tài sản chung của vợ chồng ông Thắng và bà Long là căn cứ trên 120m2, còn 30m2 đất là lối đi chung.

    Tuy nhiên, trên thực tế theo biên bản đo đạc định giá ngày 06-11-2003 thì diện tích đất gắn liền với căn nhà có tranh chấp là 16,4 m. Trong trường hợp này, lẽ ra phải xác định chính xác diện tích đất có tranh chấp từ đó mới xác định đúng giá trị tài sản chung để chia thì mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

    Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định giá trị nhà còn lại là 42.000.000 đồng, đồng thời chia cho bà Long, ông Thắng mỗi người một phần diện tích nhà, phân định ranh giới nhà đất, nhưng không xác định chính xác diện tích đất các đương sự được sử dụng và buộc thanh toán chênh lệch giá trị tài sản là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà trên 150m2, có giá trị là 390.600.000 đồng (trong đó giá trị nhà là 45.600.000 đồng và giá trị 150m đất là 345.000.000 đồng) để giao cho ông Thắng sở hữu và buộc ông Thắng thanh toán chênh lệch cho bà Long là 143.078.000 đồng cũng không chính xác, gây thiệt hại cho ông Thắng.

    Ngày 03-4-2000 bà Long lập hợp đồng sang nhượng toàn bộ phần nhà đất mà bà được sở hữu, sử dụng theo bản án đã có hiệu lực pháp luật số 05/DSPT ngày 11-3-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, nên giao dịch giữa bà Long với bà Dĩnh là ngay tình và giữa bà Long với bà Dĩnh không có tranh chấp. Sau khi sang nhượng, bà Dĩnh đã nhận nhà và sữa chữa để sử dụng.

    Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định bà Dĩnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết về phần nhà đất bà Dĩnh đã được sang nhượng, mà lại giao cho bà Long sở hữu là không giải quyết triệt để vụ án.

    Ông Thắng kháng cáo đề nghị xem xét giải quyết về hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh, thế nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại không xem xét yêu cầu kháng cáo này của ông Thắng là sai lầm, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giao toàn bộ nhà đất có tranh chấp cho ông Thắng và buộc ông Thắng thanh toán giá trị tài sản chênh lệch tài sản cho bà Long, nhưng lại không giải quyết đến hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh là không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bà Dĩnh.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 86/DSPT ngày 29-4-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về vụ án “tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Chu Thị Long với bị đơn là ông Hoàng Quang Thắng.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Các Toà án không xác định chính xác diện tích đất tranh chấp dẫn đến không bảo đảm quyền lợi của các đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm cũng bỏ sót yêu cầu kháng cáo của đương sự.

     
    4385 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận