Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất"

Chủ đề   RSS   
  • #265165 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất"

    Số hiệu

    13/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất"

    Ngày ban hành

    09/05/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 09 tháng 5 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Liễu, sinh năm 1926; trú tại 11/4 ấp Quảng Đà, xã Đông Hòa, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai; (bà Liễu ủy quyền cho hai con trai là anh Mai Văn Đỉnh, sinh năm 1959, trú tại 4/1, tổ 7, khu phố 1, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và anh Mai Văn Yên, sinh năm 1968 cùng địa chỉ với bà Liễu).

    Bị đơn:

    1. Ông Lê Văn Cứ, sinh năm 1929;

    2. Bà Dương Thị Nhàn, sinh năm 1949;

    Cùng trú tại số nhà 121 khu phố 3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Anh Lê Tấn Lập, sinh năm 1973;

    2. Anh Lê Văn Hùng, sinh năm 1974;

    3. Chị Lê Thị Mỹ Vân, sinh năm 1976;

    4. Anh Lê Thanh Dũng, sinh năm 1979;

    5. Anh Nguyễn Văn Hòa Phước, sinh năm 1975;

    6. Chị Lê Thị Thu, sinh năm 1978;

    7. Anh Lê Phước Tân, sinh năm 1967;

    Cùng trú tại số nhà 121 khu phố 3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

     

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện và những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bà Đỗ Thị Liễu ủy quyền cho anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên trình bày: Năm 1954, bà Liễu khai phá được lô đất 7m x 40m tại số 121 khu phố 3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và xây dựng 1 ngôi nhà lợp tole, nền xi măng. Năm 1970, bà Liễu cho vợ chồng ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn thuê phần phía trước của thửa đất để làm xưởng mộc. Vợ chồng ông Cứ, bà Nhàn chỉ trả tiền thuê đất được 3 tháng thì không trả tiền cho bà Liễu nữa. Năm 1975, do chuyển đi xây dựng kinh tế mới tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, nên bà Liễu đã dỡ tole của căn nhà, còn khung tường thì bà Liễu cho ông Cứ và bà Nhàn sử dụng. Khi đi, bà Liễu để người con trai là anh Mai Văn Đông ở lại học nghề tại xưởng mộc của ông Cứ. Năm 1983, ông Cứ yêu cầu bà Liễu ký giấy bán nhà đất, nhưng bà Liễu không đồng ý. Quá trình sử dụng nhà đất ông cứ đã phá khung tường nhà của bà Liễu để xây cất lại nhà mà không hỏi ý kiến của bà Liễu, nên bà Liễu không biết. Năm 1984, ông Cứ và bà Nhàn được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà 216 m2 trên diện tích 350 m2 đất (trong đó có 280 m2 đất của bà). Năm 1985, ông Cứ và bà Nhàn bán toàn bộ xưởng mộc cho Xí nghiệp xây lắp thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, nhưng sau đó ông Cứ đã lấy lại xưởng mộc và sử dụng.

    Bà Liễu yêu cầu ông Cứ và bà Nhàn trả lại khung, tường gắn liền với nền nhà 7m x 40m. Bà Liễu không công nhận có ký vào “giấy nhượng chỗ ở” ngày 24-10-1975 do ông Cứ xuất trình.

    Ông Cứ và bà Nhàn khai: ngày 24-10-1975 bà Liễu có sang nhượng lại cho ông, bà nền nhà 11m x 40m với giá 800.000đ tiền cũ, tức 1.600đ tiền mới. Vì vậy, ông bà không đồng ý yêu cầu của bà Liễu.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 184 ngày 30-12-1994, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Chấp nhận yêu cầu đòi lại khung tường và nền nhà của bà Đỗ Thị Liễu.

    Tuyên xử buộc ông Lê Văn Cứ phải trả lại cho bà Đỗ Thị Liễu khung tường và nền nhà số 29 cũ nay là số 121 K3, phường Tam Hiệp và phần đất sau vườn gắn liền với nhà có diện tích ngang 6,8m dài 40m (có sơ đồ kèm theo).

    Tiếp tục kê biên bảo thủ khung tường, nền nhà và phần đất gắn liền với khung tường và nền nhà theo biên bản kê biên định giá ngày 10-12-1994 và đề nghị Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai thu hồi lại giấy chủ quyền nhà 121 K3, phường Tam Hiệp của ông Lê Văn Cứ để đảm bảo thi hành án.

    Ông Cứ được tự tháo dỡ toàn bộ phần vật liệu xây dựng trái phép trên phần đất và nền nhà của bà Liễu theo như biên bản kê biên.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 06-01-1995, ông Cứ kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 66/DSPT ngày 09-9-1996, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 184 ngày 30-12-1994 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

    Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa giải quyết lại từ giai đoạn điều tra với thành phần tiến hành tố tụng khác theo hướng đưa Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ kiện.

    Ngày 09-4-2001, Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hòa có công văn số 522/UB.TP chưa yêu cầu giải quyết đối với số tiền mà Xí nghiệp xây lắp thành phố Biên Hòa đã giao cho ông Cứ.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 99/DSST ngày 02-5-2001, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Căn cứ vào Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;

    Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 và Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997.

    Tuyên xử: Bác yêu cầu đòi lại tài sản là khung tường nền nhà của bà Đỗ Thị Liễu (do anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên đại diện).

    Tách việc tranh chấp diện tích 280m2 đất thổ cư giữa bà Đỗ Thị Liễu với ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn để Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa giải quyết thuộc thẩm quyền khi đương sự có yêu cầu.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 04-5-2001, bà Liễu kháng cáo yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Cứ và bà Nhàn phải trả lại khung tường nhà và đất.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 99/DSPT ngày 17-8-2001, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Giữ y bản án dân sự sơ thẩm số 99/DSST ngày 02-5-2001 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

    Căn cứ Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

    Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 và Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997.

    Tuyên xử: Bác yêu cầu đòi lại tài sản là khung tường và nền nhà của bà Đỗ Thị Liễu (do anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên đại diện). Tách việc tranh chấp diện tích 28 m2 đất thổ cư giữa bà Đỗ Thị Liễu với ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn để Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa giải quyết thuộc thẩm quyền khi đương sự có yêu cầu.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Bà Liễu có đơn khiếu nại.

    Tại quyết định số 98/KNDS ngày 23-7-2002, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định:

    Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả khung tường trên đất, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và Tòa án phải giải quyết cả về đất.

    Tại quyết định giám đốc thẩm số197/GĐT-DS ngày 23-9-2002, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

    Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 99/DSST ngày 02-5-2001 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa và bản án dân sự phúc thẩm số 99/DSPT ngày 17-8-2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử việc kiện đòi tài sản giữa bà Liễu với vợ chồng ông Cứ và bà Nhàn; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 25/DSST ngày 09-9-2003, TAND tỉnh Đồng Nai quyết định:

    Áp dụng khoản 3 Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

    Căn cứ Điều 264 Bộ luật dân sự, điểm a khoản 2 Điều 38 Luật đất đai và Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997.

    Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Liễu về việc “đòi khung tường, nền nhà”.

    Ông Lê Văn Cứ, bà Dương Thị Nhàn được quyền sở hữu căn nhà số 121 thuộc KP3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa có cấu trúc tường xây, lợp tole, nền gạch tọa trên diện tích đất 191,27 m2 có tứ cận: Đông giáp nhà 120, Tây giáp nhà 123, Nam giáp quốc lộ 15. Ông Cứ, bà Nhàn được tạm sử dụng 191,27 m2 đất có căn nhà 121 ở trên. Đồng thời, ông bà có nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định.

    Vợ chồng ông Cứ, bà Nhàn có trách nhiệm thanh toán cho bà Liễu trị giá 191,27 m2 đất theo giá thị trường là 90 lượng vàng 24K9T5.

    Bác yêu cầu của bà Liễu buộc ông Cứ, bà Nhàn phải tháo dỡ nhà.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 16-3-2003, bà Liễu kháng cáo với nội dung yêu cầu ông Cứ và bà Nhàn trả lại khung tường nhà trên 280 m2 đất (không đồng ý 191,27m2 đất như án sơ thẩm), yêu cầu ông Cứ và bà Nhàn phải tháo dỡ phần xây dựng trên đất.

    Ngày 19-9-2003, ông Cứ và bà Nhàn kháng cáo với nội dung nhà đất bà Liễu đã bán cho ông Cứ và bà Nhàn từ năm 1975, nên không đồng ý thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho bà Liễu.

    Tại Quyết định số1613/QĐ-DS ngày 18-9-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai buộc ông Cứ trả nhà đất cho bà Liễu do bà Liễu không có chỗ ở.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 112/DSPT ngày 12-4-2004, Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Áp dụng khoản 2 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự .

    Khoản 3 Điều 38 Luật đất đai 1993, Điều 264 Bộ luật dân sự; xử:

    1. Chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị Liễu do anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên đại diện và kháng nghị số 1613-QĐ-DS ngày 18-9-2003 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai. Bác kháng cáo của ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn cùng những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

    2. Buộc ông Lê Văn Cứ, bà Dương Thị Nhàn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trả lại cho bà Đỗ Thị Liễu do anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên được bà Liễu ủy quyền khung tường và nền nhà số 29 (số cũ) số mới là 121 khu phố 3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sở hữu và sử dụng.

    3. Bà Đỗ Thị Liễu do anh Mai Văn Đỉnh và anh Mai Văn Yên đại diện phải trả cho ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn cùng những người có quyền và nghĩa vụ liên quan 161.849.520 đồng (theo định giá).

    4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Cứ và bà Nhàn có đơn khiếu nại; Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai có công văn số14/QĐGQKN-THA ngày 06-02-2007 đề nghị xem xét đối với bản án phúc thẩm nêu trên vì bản án phúc thẩm buộc ông Cứ và bà Nhàn phải trả bà Liễu 278m2đất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại không xem xét, giải quyết toàn bộ các công trình xây dựng của ông Cứ và bà Nhàn trên đất là không đúng, gây khó khăn cho việc thi hành án.

    Tại quyết định số32/2007/DS-KN ngày 20-3-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 112/DSPT ngày 12-4-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 25/DSST ngày 09-9-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Năm 1954, bà Đỗ Thị Liễu xây dựng ngôi nhà lợp tole, nền xi măng trên thửa đất có diện tích 278m2 tại 121, khu phố 3, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Năm 1970, bà Liễu cho vợ chồng ông Lê Văn Cứ và bà Dương Thị Nhàn thuê phần phía trước của thửa đất để làm xưởng mộc. Năm 1975, khi đi xây dựng kinh tế mới ở huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, bà Liễu đã dỡ tole của căn nhà, còn khung tường cho ông Cứ, bà Nhàn sử dụng; đồng thời, bà Liễu cho người con trai là anh Mai Văn Đông học nghề tại xưởng mộc của ông Cứ.

    Tron quá trình sử dụng, ông Cứ đã phá khung tường của bà Liễu để xây cất lại nhà vào năm 1984, ông Cứ, bà Nhàn kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu 216 m2 nhà trên diện tích 350 m2 đất. Năm 1985, ông Cứ và bà Nhàn bán toàn bộ xưởng mộc cho Xí nghiệp xây lắp thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, nhưng Xí nghiệp xây lắp thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai không thanh toán đủ tiền, nên tháng 8-1987 ông Cứ đã lấy lại xưởng mộc. Ngoài ra, vào năm 1975, ông Cứ và bà Nhàn mua của ông Trần Văn Kiểu thửa đất khoảng 160 m2 liền kề với thửa đất của bà Liễu (phần đất này không có tranh chấp).

    Bà Liễu khởi kiện yêu cầu ông Cứ, bà Nhàn trả lại khung tường nhà gắn liền với diện tích 278 m2 đất; ông Cứ, bà Nhàn không chấp nhận yêu cầu của bà Liễu và trình bày là ngày 24-10-1975 bà Liễu đã sang nhượng lại cho ông, bà nền nhà 11m x 40m với giá 800.000 đồng tiền cũ (tức 1.600 đồng tiền mới), đồng thời ông Cứ, bà Nhàn xuất trình “giấy nhượng chỗ ở” đề ngày 24-10-1975 có chữ ký của bà Liễu.

    Bà Liễu không thừa nhận có ký tên ở “giấy nhượng chỗ ở” ngày 24-10-1975 (do ông Cứ xuất trình) nên ông Cứ yêu cầu giám định chữ ký của bà Liễu tại “giấy nhượng chỗ ở” nêu trên. Tại Thông báo số 1004 ngày 28-9-1995, Phân viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát nhân dân kết luận: chữ ký tại “giấy nhượng chỗ ở” do ông Cứ xuất trình với chữ ký mẫu của bà Liễu không phải chữ ký của cùng một người. Không đồng ý với kết luận giám định, ông Cứ đề nghị giám định lại, nên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã trưng cầu giám định lại chữ ký tại “giấy nhượng chỗ ở”. Tại Thông báo số 521 ngày 28-5-1996, Phân viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát nhân dân kết luận: chữ viết trong tài liệu mẫu và tài liệu giám định là do cùng một người viết ra.

    Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu giám định lại chữ ký, nhưng cơ quan giám định lại kết luận về chữ viết, nên kết luận nêu trên của cơ quan giám định là không đúng theo yêu cầu của Tòa án và kết quả hai lần giám định khác nhau. Hơn nữa, chưa có căn cứ xác định bà Liễu là người viết tại các tài liệu mẫu mà Tòa án gửi cơ quan giám định như: “Bản kiểm kê thuế vụ” đề ngày 01-11-1971 và “Bản khai danh sách nhân khẩu” đề ngày 07-12-1976, nên kết quả giám định chưa đủ tin cậy. Mặt khác, cả hai lần giám định đều do giám định viên Trần Quốc Cảnh tiến hành là chưa đảm bảo tính khách quan. Trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp phúc thẩm phải yêu cầu các đương sự cung cấp mẫu chữ ký, chữ viết của bà Liễu ở thời điểm gần thời gian ghi tại “giấy nhượng chỗ ở” để làm cơ sở giám định và cần yêu cầu giám định cả chữ “Đỗ Thị Liễu” phía dưới chữ ký đề tên bà Liễu tại “giấy nhượng chỗ ở” theo đúng quy định của pháp luật thì mới đủ cơ sở giải quyết vụ án, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào kết quả giám định lần thứ nhất để kết luận không có việc chuyển nhượng nhà đất giữa bà Liễu và ông Cứ, bà Nhàn là chưa đủ căn cứ.

    Mặt khác, quá trình quản lý, sử dụng nhà đất ông Cứ và bà Nhàn xây dựng nhiều công trình trên đất tranh chấp, Tòa án cấp phúc thẩm lại không xác minh làm rõ giá trị các công trình trên diện tích đất bà Liễu kiện đòi, nhưng lại buộc ông Cứ, bà Nhàn trả lại toàn bộ tài sản trên 278m2 đất và chỉ buộc bà Liễu thanh toán 161.849.000 đồng là chưa xem xét đầy đủ các tình tiết của vụ án.

    Hơn nữa, ông Cứ, bà Nhàn đang quản lý sử dụng cả phần đất mà bà Liễu tranh chấp và phần đất do ông Cứ, bà Nhàn mua của ông Kiểu, Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Cứ, bà Nhàn giao trả cho bà Liễu 278 m2 đất nhưng lại không xác định rõ vị trí diện tích, ranh giới, tứ cận... là gây khó khăn cho việc thi hành án.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 1, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; 

    QUYẾT ĐỊNH:

    Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 112/DSPT ngày 12-4-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 25/DSST ngày 09-9-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Kết luận giám định của cơ quan giám định không đúng theo yêu cầu của Tòa án và kết quả hai lần giám định khác nhau, nhưng Tòa án lại căn cứ vào kết luận giám định lần thứ nhất để giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ. Mặt khác, Tòa án cũng chưa làm rõ giá trị các công trình trên diện tích đất đang tranh chấp là chưa xem xét đầy đủ các tình tiết của vụ án.

     

     

     
    3020 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận