Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản (nhà ở)"

Chủ đề   RSS   
  • #265137 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản (nhà ở)"

    Số hiệu

    04/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản (nhà ở)"

    Ngày ban hành

    06/02/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 06 tháng 02 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản (nhà ở)  giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ông Tiết Văn Ngà, sinh năm 1917; ủy quyền cho chị Tiết Thị Hòa, sinh năm 1961, theo văn bản ủy quyền ngày 04-4-2001; Đều trú tại: 216/18 Trần Huy Liệu, phường 9, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.                            

    Bị đơn: Anh Lục Minh Thành, sinh năm 1960; ủy quyền cho chị Trần Thị Kim Chi, sinh năm 1964, theo văn bản ủy quyền ngày 16-4-2001; Đều trú tại: Nhà số 30/3 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ng­ười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1.    Anh Lục Huệ Minh, sinh năm 1954;

    2.    Chị Lục Minh Nguyệt, sinh năm 1956;

    3.    Anh Lục Minh Tâm, sinh năm 1959;

    4.    Chị Trần Thị Kim Chi, sinh năm 1964;

    5.    Chị Lục Thị Kim Phượng, sinh năm 1988;

    6.    Chị Lục Thị Kim Ngọc, sinh năm 1997, do chị Chi làm giám hộ.

    7.    Chị Lục Thị Nhị, sinh năm 1948;

    Tất cả đều trú tại 30/3 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; anh Minh, chị Nguyệt, anh Tâm đều ủy quyền cho chị Lục Thị Nhị đại diện, theo văn bản ủy quyền ngày 20-12-2001;

    8. Anh Lục Minh Huệ, sinh năm 1951, hiện đang định cư tại Hoa Kỳ, ủy quyền cho chị Lục Thị Nhị đại diện, theo văn bản ủy quyền ngày 28-01-2004.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 31-7-1999, nguyên đơn ông Tiết Văn Ngà trình bày: căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là do ông mua từ năm 1954 giao cho bà Tiết Thị Báu (em gái của ông) trông nom và cho mướn để lấy tiền đóng thuế nóc gia. Năm 1987, bà Báu mất, toàn bộ giấy tờ liên quan đến nhà 30/1 ông Lục Văn Bông (chồng bà Báu) và anh Lục Minh Thành (con của bà Báu, ông Bông) thủ tiêu hết. Năm 1993, gia đình ông Bông hợp thức hóa hai căn 30/1 và 30/3 thành một căn là 30/3A và 30/3B Nguyễn Bỉnh Khiêm nên yêu cầu được lấy lại nhà số 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Ngà còn xuất trình nhiều đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành chính nhà nư­ớc tại địa phương về việc yêu cầu đòi lại căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm cụ thể như­ sau: Ngày06-7-1996, ông Ngà viết đơn gửi Đội quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: Mua nhà 30/1 trư­ớc năm 1957 và giao lại cho anh Lục Minh Huệ (con trai bà Báu, ông Bông) trông coi, quản lý giùm. Ngày 10-7-1996, ông Ngà có đơn khiếu nại gửi Hội đồng nhân dân và Ban nhà đất phư­ờng Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: Ông mua nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm khoảng năm 1958. Năm 1962, ông cho bà Báu (em gái) ở, toàn bộ giấy tờ đư­a cho bà Báu cất giữ, nay bà Báu đã chết, anh Thành (con trai bà Báu) ở phần d­ưới, còn phần trên thì cho mướn, không biết anh Thành cho thuê bao nhiêu, như­ng mỗi tháng anh Thành có đ­ưa cho ông 30.000 đồng. Ngày 24-9-1996, ông Ngà có đơn gửi Uỷ ban nhân dân phư­ờng Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xin xác nhận nguồn gốc nhà, ông có đề cập ông mua nhà năm 1954, vì ở xa nên giao cho bà Báu (em gái) trông nom, toàn bộ giấy tờ liên quan đến nhà 30/1 giao cho bà Báu cất giữ nay đã bị thất lạc. Còn chị Tiết Thị Hoà (đại diện cho ông Tiết Văn Ngà) cũng có nhiều lời khai cụ thể như sau: Tại biên bản ghi lời khai không đề ngày tháng năm của Tòa án nhân dân quận I, thành phố Hồ Chí Minh, chị Tiết Thị Hòa khai: Nhà 30/1 của ông Ngà (cha) mua từ năm 1954, khi mua bán có giấy tờ, năm 1955 hoặc năm 1957 tự xây cất. Do bà Báu (mẹ của Lục Minh Thành) đang ở nhà 30/3 nên năm 1986, bà Báu xin cho anh Lục Minh Thành ở nhờ. Trong khi nhà cha đang cho ông Lâm Giai Phư­ớc thuê trên gác, Thành ở dưới. Ông Bông giao hết giấy tờ cho bà Báu giữ, bên bà Báu đã thủ tiêu tất cả giấy tờ liên quan; ngày 06-4-2001 chị Tiết Thị Hòa khai: Năm 1954, ông Ngà mua căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm của bà Tư (đã chết), có làm giấy viết tay nhưng đã bị thất lạc do cháy nhà. Năm 1956, nhà bị cháy, năm 1957 xây cất lại và cho thuê một phần, 2 căn nhà 30/1 và 30/3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đều của ông Ngà, ông Ngà có đóng thuế đầy đủ, vì phải chăm sóc ông, bà nội nên ông Ngà giao nhà 30/3 cho bà Báu (em gái) ở, yêu cầu lấy lại nhà 30/1; tại biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 20-8-2002, chị Hòa trình bày ông Ngà mua nhà 30/1 NBK diện tích 3m x 6m của bà Năm.

     Bị đơn anh Lục Minh Thành, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị Kim Chi, đồng thời chị Chi cũng là người đại diện theo ủy quyền của anh Thành; chị Lục Thị Nhị người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời còn đại diện cho các anh Lục Minh Huệ, Lục Huệ Minh, Lục Minh Tâm, chị Lục Minh Nguyệt cho rằng: Nhà số 30/3 của ông Bông, bà Báu (bố mẹ) xây cất từ năm 1946, trên bãi cỏ hoang, không có nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà chỉ có nhà 30/3, diện tích là 6m x 6m, có nhân chứng là vợ ông Trần Văn Chính biết, gia đình đã nộp thuế toàn bộ 36m2. Vì đông anh em nên khi anh Huệ lấy vợ, bố mẹ ngăn đôi nhà để vợ chồng anh Huệ ở một bên (bên tay trái đứng từ đường nhìn vào), còn bố mẹ và các anh chị em còn lại ở một bên (bên tay phải đứng từ đường nhìn vào). Năm 1975, anh Huệ đi Mỹ, vợ con anh Huệ ở đến năm 1976 thì về bên ngoại nên cho bà Nguyễn Thị Thảo m­ướn không làm hợp đồng, vì bà Thảo có mâu thuẫn với chị Nguyệt (con gái của ông Bông, bà Báu) nên thư từ của bà Thảo, Nguyệt nhận không đư­a nên bà Thảo đề nghị gia đình cho đặt số nhà 30/1. Từ trước đến nay, ông Bông, bà Báu cho hai người thuê nhà là bà Nguyễn Thị Thảo thuê năm 1976 đến năm 1988, khi bà Thảo trả nhà thì bố, mẹ cho vợ chồng anh Lục Minh Thành vào ở cho đến nay. Năm 1993, ông Bông cho anh Lâm Giai Phước thuê phần trên gác, còn vợ chồng anh Thành vẫn ở phía dưới, năm 1996 không cho anh Phước thuê nữa. Bản hợp đồng thuê nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa ông Ngà và anh Phước gia đình không biết và không phải anh Phước thuê nhà của ông Ngà. Việc anh Thành lấy tiền của anh Phước đem qua cho ông Ngà như lời khai của ông Ngà, chị Hòa là không đúng.

    Ngoài ra, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có lời khai nhà đang tranh chấp do cha mẹ mua và xây cất nên không đồng ý trả nhà. Về bản kê khai nhà cửa năm 1977 đối với nhà số 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày là do thiếu hiểu biết về chính sách và vì sợ mất nhà (do năm 1975 anh Huệ đi nước ngoài) nên để ông Tiết Văn Ngà kê khai. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Lục Minh Thành xuất trình “Tờ cam kết” của ông Bông ngày 28-8-1985 có nội dung, xin cam kết nhà đang ở tại số 30/1 và 30/3 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là thuộc sở hữu của ông xây cất từ năm 1946. Năm 1946 nhà bị cháy, năm 1947 xây cất lại, đã ở tại nhà này từ năm 1946 đến nay, có diện tích xây dựng là 36m2, sử dụng chính là 31m2, sử dụng phụ là 5m2. Có 2 nhân chứng ký và Uỷ ban nhân dân ph­ường 7 xác nhận chữ ký của 3 người trên (ông Bông và 2 nhân chứng); ngày 02-3-1990, ông Bông lại có “Tờ tường trình về chủ quyền nhà” gửi Phòng nhà, đất quận I, thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: Gia đình ngụ tại nhà 30/3 từ năm 1946 ngang 3m dài 6m. Năm 1988 nhà bị h­ư hỏng nhiều nên có sửa chữa lại vẫn trên diện tích ngang 3m, dài 6m (có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường Đa Kao, quận 1) có nội dung nhà 30/3 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phư­ờng Đa Kao, quận 1 do ông Bông xây cất từ năm 1946 và sử dụng đến nay (căn nhà trệt, diện tích xây dựng là 36m2).

     Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1401/DSST ngày 20-8-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Chấp nhận yêu cầu của ông Tiết Văn Ngà. Buộc anh Lục Minh Thành, chị Trần Thị Kim Chi và những người trong gia đình phải trả cho ông Tiết Văn Ngà, phần bên trái nhà 30/3 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 3m x 6m trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Ông Ngà phải bồi hoàn cho anh Thành, chị Chi và những ng­ười trong gia đình trị giá phần sửa chữa nhà là 5 lư­­ợng vàng 24K ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Ông Ngà đư­ợc quyền liên hệ các cơ quan chức năng để tiến hành làm thủ tục hợp thức hoá nhà.

    Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và lãi suất quá hạn do chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

    Ngày 27-8-2002 chị Trần Thị Kim Chi là ng­ười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là ng­ười đại diện theo uỷ quyền của anh Thành, chị Lục Thị Nhị là ng­ười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là ngư­ời đại diện cho những ngư­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn lại kháng cáo.

    Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 11-3-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Huỷ bản án dân sự sơ thẩm trên; giao hồ sơ về cho Toà án cấp sơ thẩm để điều tra xét xử lại theo thủ tục chung.

    Tại Bản án dân sự sơ thẩm số1107/2005/DS-ST ngày 30-5-2005, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Xác định nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nối dài) ph­­ường Đa Kao, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của ông Tiết Văn Ngà.

    Buộc anh Lục Minh Thành, chị Trần Thị Kim Chi, Lục Thị Kim Phư­­ợng, Lục Thị Kim Ngọc cùng những ngư­­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trả căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phư­ờng Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 23,37m2 cho ông Tiết Văn Ngà. Căn nhà nằm ở phía bên trái căn nhà 30/3 từ đ­­ường Nguyễn Bỉnh Khiêm nối dài nhìn vào.

    Buộc ông Tiết Văn Ngà có trách nhiệm phải hoàn trả tiền sửa chữa là 20.810.000đ cho gia đình anh Thành và ng­­ười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thời hạn trả nhà là 6 tháng, hạn cuối cùng là ngày 30-11-2005. Trả nhà và nhận tiền tiến hành cùng 1 lúc, thi hành tại Phòng Thi hành án thành phố   Hồ Chí Minh.

    Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, tiền lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đư­ơng sự.

    Ngày 03-6-2005, chị Trần Thị Kim Chi (đại diện theo uỷ quyền cho Lục Minh Thành) kháng cáo.

    Ngày 10-6-2005, chị Tiết Thị Hoà (đại diện theo uỷ quyền cho ông Tiết Văn Ngà) kháng cáo.

    Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 442/2005/DSPT ngày 15-11-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử: không chấp nhận kháng cáo của chị Hoà. Chấp nhận 1 phần kháng cáo của anh Thành. Cải sửa một phần án sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu của ông Tiết Văn Ngà. Xác định căn nhà số 30/1 đ­­ường Nguyễn Bỉnh Khiêm nối dài có diện tích sử dụng thực tế 22,9m2 thuộc quyền sở hữu của ông Tiết Văn Ngà.

    Buộc Lục Minh Thành, Trần Thị Kim Chi, Lục Thị Nhị, Lục Minh Huệ, Lục Huệ Minh, Lục Minh Nguyệt, Lục Minh Tâm, Lục Thị Kim Phượng, Lục Thị Kim Ngọc phải giao trả căn nhà 30/1 đ­­ường Nguyễn Bỉnh Khiêm nối dài có diện tích 22,9m2 lại cho ông Tiết Văn Ngà. Tứ cận nh­­ư sau: Đông giáp đ­­ường Nguyễn Bỉnh Khiêm nối dài ngang 3,17 mét, Tây giáp nhà số 36/2 ngang 3,12 mét, Nam giáp nhà số 32 và một phần nhà số 34 dài 7,95 mét, Bắc giáp nhà số 30/3 (nhà ông Bông) dài 6,7 mét.

    Lục Minh Thành, Trần Thị Kim Chi, Lục Thị Kim Phư­­ợng, Lục Thị Kim Ngọc đ­ược l­­ưu cư­­ 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật 15-11-2005.

    Buộc ông Tiết Văn Ngà phải hoàn trả tiền sửa chữa nhà cho gia đình  Lục Minh Thành và những ng­­ười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là 20.810.000 đồng; ông Tiết Văn Ngà có quyền và nghĩa vụ đến các cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất căn nhà số 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, ph­ường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn có quyết định về án phí và trách nhiệm do chậm thi hành án.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Trần Thị Kim Chi (đại diện cho bị đơn) có đơn khiếu nại cho rằng: Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xét xử không khách quan vì “ Bản kê khai nhà cửa” năm 1977 đứng tên ông Tiết Văn Ngà do nguyên đơn cung cấp là do gia đình tự kê khai, đứng tên ông Tiết Văn Ngà, còn “Thông báo nộp thuế thổ trạch” năm 1973 ghi tên ông Ngà là giả. Toà án lấy làm căn cứ xét xử cho nguyên đơn là không đúng pháp luật, nhà 30/1 không phải của ông Ngà mà của gia đình anh Thành đã ở và sử dụng từ năm 1946 đến nay; đề nghị Toà án nhân dân tối cao xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm trên.

    Tại Quyết định số203/2006/DS-KN ngày 22-11-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 442/2005/DSPT ngày 15-11-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với nhận định: Nguyên đơn ông Tiết Văn Ngà cho rằng căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, ph­­ường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là do ông mua từ năm 1954 của bà Năm, có làm giấy tay, toàn bộ giấy tờ về nhà giao cho bà Tiết Thị Báu (em gái-vợ ông Lục Văn Bông và là mẹ anh Lục Minh Thành) giữ đã bị thất lạc, có lời khai ông cho rằng, ông mua căn nhà trên từ năm 1957 và giao cho anh Lục Minh Huệ (con bà Báu- anh trai anh Thành) trông coi, quản lý giùm, có lời khai ông lại cho rằng ông mua căn nhà trên từ năm 1958. Năm 1962, vì không ở th­­ường xuyên nên giao toàn bộ giấy tờ nhà cho bà Báu (em gái) cất giữ và cho mư­­ớn nhà, lấy tiền đóng nóc gia, năm 1987, bà Báu chết, ông Lục Văn Bông (chồng bà Báu) đã thủ tiêu hết toàn bộ giấy tờ căn nhà này. Năm 1996, ông có cho ông Lâm Giai Phước thuê, có lời khai ông Ngà cho rằng việc cho thuê nhà là do gia đình ông Bông (chồng bà Báu) cho thuê và hàng tháng đưa lại tiền cho ông;  chị Tiết Thị Hoà (đại diện cho ông Ngà) thì cho rằng căn nhà đang tranh chấp là do ông Ngà (bố của chị) mua từ năm 1954 của bà Tư­­ (đã chết), có lời khai chị Hòa khai mua nhà của bà Năm. Năm 1956 nhà bị cháy, năm 1957 xây cất lại, hai căn nhà 30/1 và 30/3 đều của ông Ngà, ông Ngà cho thuê nhà 30/1, còn nhà 30/3 thì cho bà Báu (em gái ông Ngà) ở, giấy tờ về nhà đã bị thất lạc do bị cháy. Như­­ vậy, lời khai của ông Ngà có sự mâu thuẫn và mâu thuẫn với cả lời khai của chị Hoà đ­­ược ông Ngà uỷ quyền và không đư­­ợc anh Lục Minh Thành thừa nhận. Trong khi đó, ông Ngà xuất trình "giấy thông báo nộp thuế" năm 1973 và "bản kê khai nhà cửa" năm 1977 chư­­a phải là căn cứ xác định quyền sở hữu, mặt khác các tài liệu ông Ngà xuất trình, phía bị đơn cho rằng "giấy thông báo nộp thuế" năm 1973 là giả, còn "bản kê khai nhà cửa" năm 1977 có sự tẩy xoá, sửa chữa. Ngoài ra, theo Công văn số339/CV-QLĐT ngày 28-6-2002 của Phòng quản lý đô thị của Uỷ ban nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xác nhận: Hai nhà (nhà 30/1 và 30/3) không có giấy tờ hợp lệ về quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và Công văn số35/CV-TTTTLT ngày 31-01-2002 của Trung tâm thông tin l­­ưu trữ t­­ư liệu địa chính- Nhà đất của Sở nhà đất cũng xác nhận: Cả hai số nhà 30/1 và 30/3 không thấy có hồ sơ.

    Nh­­ư vậy, ông Ngà chư­­a chứng minh đư­­ợc căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phư­ờng Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của ông. Mặt khác từ trư­­ớc đến nay, ông Ngà cũng ch­­ưa bao giờ ở tại nhà này, ông Ngà cũng không hề kê khai, đăng ký về chủ quyền nhà và ông Ngà cũng không nộp thuế theo quy định của pháp luật.

    Còn gia đình anh Lục Minh Thành đã ở đây từ năm 1946 đến nay và có nộp thuế từ năm 1990 đến năm 2002. Năm 1985 đã làm đơn kê khai xin cấp giấy chủ quyền (do ông Lục Văn Bông kê khai). Như­­ vậy, gia đình anh Thành đã ở tại nhà này qua các thế hệ trên 60 năm. Căn cứ vào khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự năm 2005 thì gia đình anh Thành đã chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai là 50 năm tính từ ngày sử dụng cho đến ngày ông Ngà có đơn khiếu nại (năm 1996). Do đó, cần phải thu thập và làm rõ những vấn đề nêu trên. Nếu không có chứng cứ gì khác, thì bác yêu cầu của nguyên đơn.

    Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 442/2005/DSPT ngày 15-11-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 1107/2005/DSST ngày 30-5-2005 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị số203/2006/DS-KN ngày 22-11-2006 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị nêu trên.

    XÉT THẤY:

    Nguyên đơn ông Tiết Văn Ngà cho rằng căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, ph­­ường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là do ông mua từ năm 1954 của bà Năm, có làm giấy tay, toàn bộ giấy tờ về nhà giao cho bà Tiết Thị Báu (em gái-vợ ông Lục Văn Bông và là mẹ anh Lục Minh Thành) giữ đã bị thất lạc, có lời khai ông cho rằng, ông mua căn nhà trên từ năm 1957 và giao cho anh Lục Minh Huệ (con bà Báu- anh trai anh Thành) trông coi, quản lý giùm, có lời khai ông lại cho rằng ông mua căn nhà trên từ năm 1958. Năm 1962, vì không ở th­­ường xuyên nên giao toàn bộ giấy tờ nhà cho bà Báu (em gái) cất giữ và cho mư­­ớn nhà, lấy tiền đóng nóc gia, năm 1987, bà Báu chết, ông Lục Văn Bông (chồng bà Báu) đã thủ tiêu hết toàn bộ giấy tờ căn nhà này. Năm 1996, ông có cho ông Lâm Giai Phước thuê, có lời khai ông Ngà cho rằng việc cho thuê nhà là do gia đình ông Bông (chồng bà Báu) cho thuê và hàng tháng đưa lại tiền cho ông;  chị Tiết Thị Hoà (đại diện cho ông Ngà) thì cho rằng căn nhà đang tranh chấp là do ông Ngà (bố của chị) mua từ năm 1954 của bà Tư­­ (đã chết), có lời khai chị Hòa khai mua nhà của bà Năm. Năm 1956 nhà bị cháy, năm 1957 xây cất lại, hai căn nhà 30/1 và 30/3 đều của ông Ngà, ông Ngà cho thuê nhà 30/1, còn nhà 30/3 thì cho bà Báu (em gái ông Ngà) ở, giấy tờ về nhà đã bị thất lạc do bị cháy. Như­­ vậy, lời khai của ông Ngà có sự mâu thuẫn và mâu thuẫn với cả lời khai của chị Hoà đ­­ược ông Ngà uỷ quyền về thời gian mua nhà, về người bán nhà và về người thuê nhà. Trong khi đó, ông Ngà xuất trình "Giấy báo nộp thuế thổ trạch" năm 1973 và "Bản kê khai nhà cửa" năm 1977 chư­­a phải là căn cứ xác định quyền sở hữu. Mặt khác, các tài liệu ông Ngà xuất trình, phía bị đơn cho rằng "Giấy báo nộp thuế thổ trạch" năm 1973 là giả, còn "Bản kê khai nhà cửa" năm 1977 có sự tẩy xoá, sửa chữa và do gia đình bị đơn tự kê khai đứng tên ông Ngà.

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì ông Ngà chư­­a xuất trình được đầy đủ chứng cứ để chứng minh đư­­ợc căn nhà 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phư­ờng Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng và sở hữu hợp pháp của ông. Mặt khác từ trư­­ớc đến nay, ông Ngà cũng ch­­ưa bao giờ ở tại nhà này, ông Ngà cũng không hề kê khai, đăng ký về chủ quyền nhà và ông Ngà cũng không nộp thuế theo quy định của pháp luật.

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì gia đình anh Lục Minh Thành đã ở đây từ năm 1946 đến nay và có nộp thuế từ năm 1990 đến năm 2002. Năm 1985 có làm “Tờ cam kết” xin cấp giấy chủ quyền (do ông Lục Văn Bông kê khai). Như­­ vậy, gia đình anh Thành đã ở tại nhà này qua các thế hệ trên 60 năm.

    Khi ông Ngà khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm lần thứ nhất chủ yếu căn cứ vào “Giấy báo nộp thuế thổ trạch” năm 1973 và “Bản kê khai nhà cửa” năm 1977 đứng tên ông Ngà để quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngà, buộc gia đình anh Thành và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải giao trả ông Ngà căn nhà số 30/1 Nguyễn Bỉnh Khiêm là chưa xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 11-3-2003 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã huỷ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên với lý do Toà án cấp sơ thẩm ch­­ưa điều tra, xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ như: Ông Lâm Giai Phư­­ớc là ng­­ười thuê nhà của ông Tiết Văn Ngà hay thuê nhà của ông Lục Văn Bông? thuê nhà 30/1 hay 30/3; Thuê tầng trệt hay thuê trên gác xép, từ thời gian nào đến thời gian nào, ai thu tiền và lý do đăng ký tạm trú tại 30/3; cần xác minh làm rõ ai là ng­ười trực tiếp viết bản khai căn nhà 30/1 và căn nhà 30/3 vào năm 1977, có sự uỷ quyền không và cần đối chiếu với bản gốc để xác định các bản khai có bị sửa chữa, tẩy xoá không? Cơ quan quản lý nhà đất của quận 1 và cơ quan quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ các loại giấy tờ, bản đồ gì khác có liên quan đến căn nhà 30/1 và 30/3 không v.v?

    Sau khi có bản án dân sự phúc thẩm trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vẫn chưa thu thập, xác minh làm rõ các vấn đề mà bản án dân sự phúc thẩm số 47 nêu trên đã đặt ra. Mặt khác, sau khi xét xử phúc thẩm lần hai, chị Trần Thị Kim Chi có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm cho rằng “Giấy báo nộp thuế thổ trạch” đứng tên ông Tiết Văn Ngà năm 1973 là giả nên cũng cần phải giám định, xác minh làm rõ sự thật khách quan việc này. 

    Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 442/2005/DSPT ngày 15-11-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 1107/2005/DSST ngày 30-5-2005 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp về quyền sở hữu nhà” giữa nguyên đơn là ông Tiết Văn Ngà với bị đơn là anh Lục Minh Thành; ng­­ười có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Lục Huệ Minh, chị Lục Minh Nguyệt , anh Lục Minh Tâm, chị Lục Thị Nhị, anh Lục Minh Huệ, chị Trần Thị Kim Chi, Lục Thị Kim Phư­ợng,  Lục Thị Kim Ngọc (chị Ngọc do chị Trần Thị Kim Chi làm giám hộ).

     2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Các Tòa án chưa làm rõ tài sản đang tranh chấp (nhà ở) có đúng là của nguyên đơn không.

     

     
    2942 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận