Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265163 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Số hiệu

    12/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Ngày ban hành

    05/04/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 05 tháng 4 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:

    1. Ông Nguyễn Văn Trú, sinh năm 1921;Trú tại: 27/2 Lý Thường Kiệt, thị trấn Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Bà Lê Thị Nhẹm, sinh năm 1924; Trú tại: 570 FERNANDO-DRONOVATO CA 94947 USA. ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Trọng, sinh năm 1947, trú tại: 82/4B đường Bà Triệu, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bị đơn:

    1. Ông Dương Hoàng Dũ, sinh năm 1963; Trú tại: 457/83 Cách Mạng Tháng Tám, phường 13, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Bà Nguyễn Thị Quýsinh năm 1963; Trú tại: 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông Nguyễn Văn Hiệp, sinh năm 1961; Trú tại: 27/2 Lý Thường Kiệt, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Bà Nguyễn Thị Nguyệt Yến, sinh năm 1980; Trú tại: 92/8A ấp Dân Thắng II, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    3. Ông Nguyễn Văn Trọng, sinh năm 1947; Trú tại: 27/2 Lý Thường Kiệt, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 14-12-2004 cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm có đơn khởi kiện vợ chồng con gái là ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý đòi lại tài sản với nội dung:

    Năm 1988 vợ chồng cụ mua một căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh nhờ con rể là ông Dương Hoàng Dũ đứng tên nhằm mục đích để ông Dũ dễ dàng chuyển nhượng được hộ khẩu từ Mỹ Tho lên thành phố Hồ Chí Minh vì trong thời gian này ông Dũ mới ra trường và nhận công tác tại thành phố Hồ Chí Minh (có xác nhận của bác sĩ Huỳnh Hoài Nam là người giới thiệu cho cụ mua căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia và đi bảo vệ khi cụ đi trả tiền mua nhà).

    Năm 1996 vợ chồng cụ mua tiếp căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh nhờ vợ chồng ông Dũ, bà Quý đứng tên (có giấy xác nhận của chủ cũ căn nhà bà Nguyễn Thị Kim Trinh đã nhận tiền từ tay cụ).

    Năm 2001 cụ mua miếng đất 200 m2 ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục nhờ con gái là bà Nguyễn Thị Quý đứng tên (có giấy xác nhận của chủ cũ là bà Nguyễn Thị Hồng Hà).

    Cụ là người trực tiếp đứng ra giao dịch, bỏ vàng ra mua các tài sản trên, cụ không có nhận tài sản gì của gia đình anh Dương Hoàng Dũ và giữ tất cả các giấy tờ bản chính nhà, đất kể từ khi mua nhà, đất.

    Nay vợ chồng cụ đã già yếu và ông Dũ đòi ly hôn với con gái cụ là bà Nguyễn Thị Quý, sau đó ông Dũ sẽ tranh chấp số tài sản trên nên vợ chồng cụ khởi kiện yêu cầu con gái cụ là bà Nguyễn Thị Quý và con rể là ông Dương Hoàng Dũ trả lại quyền sở hữu các tài sản trên cho vợ chồng cụ.

    Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án cụ Trú còn có lời khai năm 1996 cụ mua 1 khu đất nghĩa trang (đất thổ mộ của gia đình) thuộc tờ bản đồ số 9 lô 298 xã Tân Thời Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Văn Muôn. Sau đó cụ Trú đứng tên xin phép làm nhà trên 200m2 là 1 phần của lô đất trên (được Ủy ban nhân dân xã Tân Thới Nhì cho phép). Nhà này cụ Trú cho con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt ở, sau đó bà Nguyễn Thị Nguyệt chết thì con bà Nguyệt là Nguyễn Thị Nguyệt Yến ở và trông nom quản lý. Tòa bộ giấy tờ nhà đất do cụ Trú quản lý, sử dụng. Cụ Trú cho con trai là ông Nguyễn Văn Hiệp và ông Nguyễn Văn Trọng mỗi người sử dụng 86m và ông Hiệp, ông Trọng đều đã được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Năm 2001 cụ Trú và gia đình có ý định đi định cư sang Mỹ nên có viết giấy bán lại khu đất nghĩa trang này cho con gái là bà Nguyễn Thị Quý với số tiền 40.000USD. Nhưng sau đó cụ Trú không đi Mỹ nên không bán khu đất này nữa.

    (Năm 2005 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã xử cho ông Dũ được ly hôn với bà Quý. Tài sản, con cái tách ra giải quyết bằng một vụ án khác).

    Ngày 20-4-2005 ông Dương Hoàng Dũ có đơn phản tố với nội dung toàn bộ tài sản cụ Nguyễn Văn Trú kiện ông là tài sản chung của vợ chồng ông, do vợ chồng ông làm ăn được nên có tiền mua và ông yêu cầu được chia đôi số tài sản chung này giữa ông và vợ ông là bà Nguyễn Thị Quý, các tài sản đó là:

    - Căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

    - Căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh;

    Lô đất 200 m2 tọa lạc tại xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngoài ra, vợ chồng ông còn có căn nhà nằm trên 03 lô đất số 298 tờ bản đồ số 9 thuộc bản đồ địa chính 1995 tại xã Tân Thới, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Nhà và đất này do vợ chồng ông mua của cụ Trú cùng hai người con cụ Trú là ông Nguyễn Văn Trọng và ông Nguyễn Văn Hiệp (1 thửa đứng tên cụ Trú, 1 thửa đứng tên ông Trọng, 1 thửa đứng tên ông Hiệp) với giá 40.000 USD nhưng chưa được sang tên.

    Quá trình giải quyết vụ án, ông Dũ còn có lời khai thể hiện vợ chồng ông được gia đình hai bên giúp đỡ, bố vợ ông cho tiền nên vợ chồng ông đã mua được căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh do ông đứng tên trên giấy chủ quyền nhà cấp ngày 21-9-1988.

    Bà Nguyễn Thị Quý trình bày: Trước đây vợ chồng bà chưa có nơi ở nên bố bà có mua một số nhà, đất bao gồm: căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh và 1 thửa đất 200m2 ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh nhờ vợ chồng bà đứng tên để giúp vợ chồng bà có nơi ở ổn định và ông Dũ có điều kiện công tác ở thành phố. Bà xác định nhà, đất trên là của bố mẹ bà và các giấy tờ bản gốc nhà, đất do bố bà giữ. Nay bố bà khởi kiện đòi lại nhà, đất bà không có tranh chấp và xin trả lại tài sản cho bố mẹ bà là cụ Trú, cụ Nhẹm. Ngoài ra, bà Quý còn có lời khai thể hiện căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia do bố bà bỏ tiền ra mua vì lúc đó ông Dũ mới ra trường, lương thấp nên không có khả năng mua nhà, đất và việc bà viết bản cam kết xác định các tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng tại bệnh viện Từ Dũ là do ông Dũ lừa dối, ép buộc bà viết để ông Dũ sẽ rút đơn ly hôn, vì không muốn vợ chồng chia tay nhau nên bà viết theo sự ép buộc, gợi ý của ông Dũ. Còn giấy bán 3 lô đất ở xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn (1 lô đất mang tên cụ Trú, 1 lô đất mang tên ông Trọng, 1 lô đất mang tên ông Hiệp) đề ngày 18-12-2001 là do gia đình cụ Trú có ý định đi định cư sang Mỹ nên thỏa thuận bán cho bà số đất trên. Nhưng sau đó cụ Trú không đi định cư nữa nên việc thỏa thuận bán 3 lô đất chưa thực hiện, nay bà không có tranh chấp và lô đất trên vẫn thuộc quyền sở hữu, sử dụng của cụ Trú, ông Trọng, ông Hiệp.

    Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Hiệp, ông Nguyễn Văn Trọng và chị Nguyễn Thị Nguyệt Yến đều khẳng định toàn bộ nhà, đất trên thuộc quyền sở hữu của cụ Trú, cụ Nhẹm. Riêng 2 thửa đất được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trọng, ông Hiệp thuộc quyền sử dụng của ông Trọng, ông Hiệp.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số1763/2005/DS-ST ngày 17-8-2005 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu đòi quyền sở hữu  nhà, quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm. Bác toàn bộ yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà và tài sản của ông Dương Hoàng Dũ.

    Xử: - Xác nhận căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên ông Dương Hoàng Dũ thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    - Xác nhận căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    - Xác nhận thửa đất 200m2 xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên bà Nguyễn Thị Quý thuộc quyền sở hữu, sử dụng của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    - Xác nhận 3 lô đất số 298 bản đồ số 9 tọa lạc tại xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Nguyễn Văn Hiệp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng và ông Nguyễn Văn Hiệp.

    - Bác hợp đồng mua bán nhà đất giữa cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Nguyễn Văn Hiệp với bà Nguyễn Thị Quý ngày 18-12-2001. Tuyên bố hợp đồng bán nhà đất ngày 18-12-2001 là vô hiệu. Xác nhận các bên chưa thực hiện hợp đồng mua bán nhà đất ngày 18-12-2001. Bác yêu cầu của ông Dũ đòi cụ Trú, ông Trọng, ông Hiệp phải trả 40.000USD.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu toàn bộ căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu toàn bộ căn nhà 96  Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ thửa đất 200m2 ở Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm có quyền đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục xin đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản của mình theo các quy định của pháp luật.

    Việc thi hành án sẽ được thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

    Về án phí: Ông Dương Hoàng Dũ phải nộp 16.099.355 đồng án phí sơ thẩm dân sự. Xác nhận ông Dũ đã nộp 8.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm theo phiếu thu số 004762 ngày 27-4-2005 của Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh. Ông Dũ còn phải nộp tiếp 8.099.355 đồng.

    Cụ Nguyễn Văn Trú không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Được hoàn lại 14.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo phiếu thu số 004046 ngày 10-01-2005 của Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 19-8-2005 ông Dũ có đơn kháng cáo với nội dung Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của các nhân chứng để nhận định số tài sản trên là do ông và bà Quý đứng tên giùm là không chính xác làm thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của ông.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 476/2005/DSPT ngày 16-12-2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    Chấp nhận toàn bộ yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Bác toàn bộ yêu cầu phản tố đòi quyền sở hữu nhà và tài sản của ông Dương Hoàng Dũ.

    Xử: Xác nhận căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Xác nhận căn nhà 96  Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên ông Dương Hoàng Dũ thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Xác nhận thửa đất 200m2 xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên bà Nguyễn Thị Quý thuộc quyền sở hữu, sử dụng của cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Xác nhận 3 lô đất số 298 bản đồ số 9 tọa lạc xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Nguyễn Văn Hiệp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng và ông Nguyễn Văn Hiệp.

    Bác hợp đồng mua bán nhà đất giữa cụ Nguyễn Văn Trú, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Nguyễn Văn Hiệp với bà Nguyễn Thị Quý ngày 18-12-2001. Tuyên bố hợp đồng bán nhà đất ngày 18-12-2001 là vô hiệu. Xác nhận các bên chưa thực hiện hợp đồng mua bán nhà đất ngày 18-12-2001. Bác yêu cầu của ông Dũ đòi cụ Trú, ông Trọng, ông Hiệp phải trả 40.000USD.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu toàn bộ căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu toàn bộ căn nhà 96  Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Buộc ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý phải trả lại quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ thửa đất 200m2 ở Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm.

    Cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm có quyền đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục xin đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản của mình theo các quy định của pháp luật.

    Việc thi hành án sẽ được thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

    Ngoài ra, bản án dân sự phúc thẩm còn có quyết định về án phí.

    Ngày 09-4-2006 ông Dương Hoàng Dũ có đơn khiếu nại với nội dung: Tòa án các cấp bác toàn bộ yêu cầu của ông, không công nhận đó là tài sản chung của vợ chồng là không đúng, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của ông.

    Tại Quyết định số19/2007/DS-KN ngày 23-02-2007 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 476/2005/DSPT ngày 16-12-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận xét: "Cụ Nguyễn Văn Trú và cụ Lê Thị Nhẹm khởi kiện cho rằng 02 căn nhà (số 1/6 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh và số 96 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh), 200m2 đất ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn và ba lô đất tờ bản đồ số 9 lô 298 ở xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh là của vợ chồng cụ mua và nhờ con gái là bà Nguyễn Thị Quý và con rể là ông Dương Hoàng Dũ đứng tên giùm. Ông Dũ thì cho rằng toàn bộ các tài sản đang tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng ông.

    Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu của cụ Trú và quyết định căn nhà 96  Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5; 200m2 đất ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn và ba lô đất số 298, tờ bản đồ số 9 xã Tân Thới Nhì đều thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng của cụ Trú, cụ Nhẹm, còn ông Dũ, bà Quý chỉ là người đứng tên giùm là có căn cứ.

    Riêng đối với căn nhà 1/6 Lữ Gia, tuy cụ Trú là người bỏ tiền mua của ông Nguyễn Ngọc Vũ vảo năm 1988, nhưng sau khi mua nhà đã để ông Dũ đứng tên (hợp đồng mua bán có xác nhận của Ủy ban nhân dân quận 11, thành phố Hồ Chí Minh) và vợ chồng bà Quý, ông Dũ đã trực tiếp quản lý, sử dụng từ năm 1988 cho đến khi vợ chồng ly hôn vào năm 2004; trong suốt thời gian dài vợ chồng ông Dũ sử dụng, cụ Trú không có tranh chấp và không yêu cầu ông Dũ làm thủ tục sang tên sở hữu căn nhà trên cho cụ, mà chỉ đến khi vợ chồng bà Quý ly hôn thì cụ Trú mới có đơn khởi kiện; do đó, có căn cứ xác định căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia là tài sản chung của ông Dũ, bà Quý như lời khai của ông Dũ là cụ Trú cho vợ chồng ông tiền để mua nhà này. Tòa án cấp phúc thẩm xác nhận căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia thuộc quyền sở hữu của vợ chồng cụ Trú và buộc ông Dũ, bà Quý phải trả lại nhà cho vợ chồng cụ Trú là không đúng.

    Do Tòa án các cấp xác định quyền sở hữu căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia không đúng nên quyết định về án phí sơ thẩm theo giá ngạch đối với tổng giá trị của các tài sản tranh chấp cũng không đúng”.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Cụ Trú, cụ Nhẹm nguyên là bố mẹ vợ ông Dũ đang có tranh chấp về quyền sở hữu các tài sản bao gồm căn nhà 1/6 Lữ Gia, căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ; 200m2 đất ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Trú cho rằng cụ bỏ tiền ra mua 2 căn nhà và 200m2 đất ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh và nhờ vợ chồng con gái là ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý đứng tên giùm; còn ông Dũ thì cho rằng các tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng ông, do vợ chồng ông bỏ tiền ra mua. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của các đương sự, lời khai của bà Nguyễn Thị Kim Trin, bà Nguyễn Hồng Hà là chủ nhà, đất cũ và lời khai của nhân chứng thấy việc Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà 96 Nguyễn Thị Nhỏ và 200m2 đất ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn mà vợ chồng ông Dũ, bà Quý đứng tên trên giấy tờ mua bán đều thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Trú, cụ Nhẹm còn ông Dũ, bà Quý chỉ là người đứng tên giùm là có căn cứ.

    Đối với căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia: Ông Dũ có nhiều lời khai mâu thuẫn về nguồn tiền mua nhà, có lúc ông Dũ có lời khai tiền mua nhà là do hai bên gia đình giúp đỡ, có lúc ông Dũ lại có lời khai tiền mua nhà là do bố vợ cho nhưng cụ Trú không thừa nhận cho ông Dũ, bà Quý nhà mà có lời khai thể hiện cụ là người bỏ tiền ra mua nhà và là người trực tiếp đứng ra giao dịch, có bác sĩ Huỳnh Hoài Nam xác nhận. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cụ Trú có lời khai cụ nhờ ông Dũ đứng tên giùm là để tạo điều kiện cho ông Dũ nhập hộ khẩu vào thành phố chứ không cho ông Dũ, bà Quý nhà này, lời khai của cụ Trú là không có căn cứ chấp nhận vì tại thời điểm mua nhà (ngày 21-9-1988) ông Dũ đã có hộ khẩu ở thành phố Hồ Chí Minh (nhập vào hộ anh trai ông Dũ là ông Dương Hoàng Anh ngày 22-5-1988), nhưng một thực tế được xác định là ông Dũ đã đứng tên căn nhà này và cùng với bà Quý quản lý sử dụng từ khi mua nhà cho đến khi vợ chồng ông Dũ, bà Quý ly hôn cụ Trú, cụ Nhẹm không có ý kiến gì. Tại đơn tường trình đề ngày 29-4-2004 bà Quý có nội dung “cha tôi Nguyễn Văn Trú bỏ ra 19,7 lượng vàng mua căn nhà này cho riêng con gái năm 1988…”. Nhưng quá trình giải quyết vụ án này bà Quý lại có lời khai khác. Vì vậy cần phải xác minh, làm rõ thêm việc cụ Trú có cho vợ chồng con gái là bà Quý và ông Dũ căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia hoặc cụ Trú cho ông Dũ, bà Quý tiền để mua nhà này. Mặt khác ông Dũ, bà Quý có lời khai mâu thuẫn về tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, về nguồn gốc căn nhà nhưng Tòa án các cấp không tiến hành xác minh làm rõ tình trạng tài sản của ông Dũ, bà Quý trong thời kỳ hôn nhân cũng như không tiến hành đối chất giữa các đương sự để làm sáng tỏ lời khai mâu thuẫn và không lấy lời khai của ông Nguyễn Ngọc Vũ là người bán căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia mà chỉ căn cứ vào lời khai của cụ Trú và việc cụ Trú còn giữ toàn bộ giấy tờ mua bán để xác định căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia thuộc quyền sở hữu, sử dụng của cụ Trú, cụ Nhẹm và bác yêu cầu của ông Dũ về việc xác định căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia là tài sản chung của ông Dũ và bà Quý đều là chưa có căn cứ vững chắc. Nếu sau khi thu thập những vấn đề nêu trên không có đủ căn cứ chứng minh là cụ Trú đã cho ông Dũ, bà Quý căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia hoặc cụ Trú cho ông Dũ, bà Quý tiền để mua nhà thì cũng phải xem xét đến công sức của ông Dũ, bà Quý trong quá trình quản lý, sửa chữa, tu bổ căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia nếu ông Dũ, bà Quý có yêu cầu. Mặt khác, do Tòa án các cấp xác định quyền sở hữu căn nhà 1/6 cư xá Lữ Gia chưa chính xác dẫn đến việc quyết định về án phí sơ thẩm theo giá ngạch đối với tổng giá trị của các tài sản tranh chấp cũng không đúng nên cũng cần được xem xét, giải quyết lại.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 476/2005/DSPT ngày 16-12-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số1763/2005/DS-ST ngày 17-8-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa nguyên đơn là cụ Nguyễn Văn Trú, cụ Lê Thị Nhẹm với bị đơn là ông Dương Hoàng Dũ và bà Nguyễn Thị Quý; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Hiệp, bà Nguyễn Thị Nguyệt Yến và ông Nguyễn Văn Trọng; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Tòa án chưa xác minh rõ ai là chủ sở hữu căn nhà đang tranh chấp.

     
    3044 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận