Số hiệu
|
05/2007/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng dân sự (chuyển nhượng quyền sử dụng đất)"
|
Ngày ban hành
|
06/02/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 06 tháng 02 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng dân sự (chuyển nhượng quyền sử dụng đất) giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Cường, sinh năm 1970; trú tại: 89/5 khu phố Long Thới, Lái Thiêu, Thuận An, tỉnh Bình Dương. ủy quyền cho ông Huỳnh Công Thư, sinh năm 1970; trú tại: 33 Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Tây, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn:
1. Ông Đào Văn Khải, sinh năm 1962;
2. Bà Lê Thị Thu, sinh năm 1962.
Cùng trú tại: 42 Lê Duy Nhuận, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thanh Thủy, sinh năm 1957. Trú tại 8721 Summer Crest Circle Garden Grove C.A92844USA.
NHẬN THẤY:
Theo ông Nguyễn Văn Cường trình bày: Ngày 07-10-2000 ông (Nguyễn Văn Cường) ký hợp đồng chuyển nhượng 3.739m2 đất (chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tọa lạc tại số 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cho ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu với giá 2.960.000.000 đồng. Theo nội dung hợp đồng thì ông (Cường) có trách nhiệm ký kết tất cả các giấy tờ có liên quan trong quá trình làm thủ tục sang nhượng cho ông Khải, bà Thu và thỏa thuận nhận tiền theo các đợt:
1- Bên A (ông Cường) sẽ giao cho bên B (ông Khải, bà Thu) quyền quản lý và sử dụng miếng đất với tất cả tài sản hiện có trên đất ngay sau khi bên B (ông Khải, bà Thu) thanh toán cho bên A số tiền là 1.994.133.000 đồng (một tỉ chín trăm chín mươi bốn triệu một trăm ba mươi ba ngàn đồng chẵn).
2- Số tiền còn lại là 997.067.000 đồng (chín trăm chín mươi bảy triệu không trăm sáu mươi bảy ngàn đồng chẵn) bên A (ông Cường) cho bên B (ông Khải, bà Thu) thiếu lại trong vòng 12 tháng kể từ ngày bên B (ông Khải, bà Thu) thanh toán cho bên A (ông Cường) số tiền trên là 1.994.133.000 đồng.
Ngay sau khi ký hợp đồng ông (Cường) đã nhận tiền cọc 200.000.000 đồng và giao toàn bộ giấy tờ cho ông Khải, bà Thu làm giấy tờ. Đến ngày 30-7-2001, ông Khải, bà Thu giao thêm cho ông 800.000.000 đồng nữa buộc ông phải bàn giao đất cho bà Thu, ông Khải quản lý. Do tin tưởng ông Khải, bà Thu là chỗ quen biết, sẽ thực hiện đúng điều khoản thanh toán nên ông giao đất cho ông Khải, bà Thu quản lý. Đế ngày 20-01-2001 ông Khải, bà Thu hẹn sẽ đến thanh toán tiền nên ông đã đánh máy sẵn giấy biên nhận tiền, nhưng sau khi hai bên ký xong giấy biên nhận tiền thì ông Khải không giao cho ông 1.960.000.000 đồng (một tỉ chín trăm sáu mươi triệu đồng) mà đưa cho ông một giấy biện nhận tiền không ghi ngày, tháng, năm với nội dung ông Khải đã giao số tiền 1.960.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thanh Thủy (là Việt kiều Mỹ và là bà con chú bác trong họ của ông) vì ông còn thiếu nợ bà Thủy nên bà Thủy nhận tiền để cấn trừ nợ. Không đồng ý với cách giải quyết của ông Khải, bà Thu, ông đã tìm cách liên lạc với bà Thủy để biết rõ sự việc nhưng ông không liên lạc được với bà Thủy, ông đã nhiều lần đến gặp ông Khải, bà Thu yêu cầu tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền nhưng ông Khải, bà Thu bảo rằng đã trả cho bà Thủy và né tránh không gặp ông để giải quyết. Ông thấy ông bị vợ chồng ông Khải, bà Thu và bà Thủy lừa gạt trong việc mua bán đất để lấy đất, giấy tờ và lừa ông ký vào giấy biên nhận trên là vi phạm pháp luật và vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Ngoài ra, ông Cường còn có lời khai thể hiện sau khi mua đất ông có xây một căn nhà nhỏ để giữ đất, sau đó ông bán đất cho ông Khải, bà Thu chứ ông không bán nhà. Ông không biết và không đồng ý việc ông Khải, bà Thu tự hợp thức hóa nhà vào năm 2002 và thay đổi số nhà 1683/3B thành số nhà 325/11A khu phố 3, phường An Phú Đông. Ông yêu cầu hủy hợp đồng mua bán đất ghi ngày 07-10-2000 giữa ông với ông Khải, bà Thu; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở, đất ở số 1627 ngày 27-11-2002 của Ủy ban nhân dân quận 12, buộc ông Khải, bà Thu trả lại cho ông Cường 3.739m2đất và căn nhà cấp 4 có diện tích 126m2 tại nhà số 1683/3B (nay là nhà số 325/11A) khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh; ông đồng ý hoàn lại cho ông Khải, bà Thu số tiền đã nhận và các khoản chi phí lấp mặt bằng là 400.000.000 đồng.
Ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu trình bày: ông bà có ký hợp đồng chuyển nhượng 3.739m2 trên đó có một căn nhà mang số 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông của ông Nguyễn Văn Cường với giá tiền là 2.991.000.000 đồng, nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương. Do ông Cường chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên thỏa thuận ông thanh toán trước cho ông Cường 200.000.000 đồng và ông Cường có trách nhiệm làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi nào hoàn tất thì ông sẽ thanh toán khoản còn lại. Ngày 07-10-2000, ông bà đã giao cho ông Cường 200.000.000 đồng và ngày 30-7-2001 ông bà thanh toán tiếp cho ông Cường 800.000.000 đồng, tổng cộng là 1.000.000.000 đồng. Sau đó, do không hoàn tất được giấy tờ nên ông Cường đề nghị vợ chồng ông tự tiến hành việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông Cường bớt 31 triệu cho vợ chồng ông để làm chi phí dịch vụ. Do vậy vợ chồng ông đã thanh toán được 1.000.000.000, còn lại 1.960.000.000 đồng vợ chồng ông sẽ thanh toán khi ông Cường giao toàn bộ giấy tờ liên quan đến nguồn gốc căn nhà. Ngày 02-10-2001, vợ chồng ông đem 1.960.000.000 đồng đến giao cho ông Cường tại nhà ông Cường, ông Cường nhận tiền và đưa cho bà Thủy. Việc nhận tiền này ông Cường có viết biên nhận xác nhận đã nhận đủ 2.960.000.000 đồng, đồng thời giao toàn bộ giấy tờ liên quan đến nguồn gốc nhà đất cho vợ chồng ông. Sau khi giao đủ tiền, ông bà đã tiến hành đổ đất, san lấp mặt bằng và xin đổi số nhà 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12 thành số nhà 325/11A khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12. Ông Cường cho rằng chưa nhận tiền của vợ chồng ông và ông tự ý giao tiền cho bà Thủy là không đúng, vì vợ chồng ông không quen biết bà Thủy mà chỉ biết bà Thủy thông qua ông Cường và nếu như ông Cường chưa nhận tiền thì ông Cường không bao giờ giao giấy tờ gốc để vợ chồng ông hợp thức hóa. Ngoài ra, ông Cường còn ký lùi thời gian vào giấy sang nhượng nhà và đất ghi ngày 10-3-1999 để giúp ông, bà hợp thức hóa nhà và ông bà đã được Ủy ban nhân dân quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1627 ngày 27-11-2002. Nay ông bà không đồng ý các yêu cầu của ông Cường.
Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy trình bày: Bà và ông Cường là bà con chú bác, vì quan hệ đó nên bà cho ông Cường mượn hơn 2 tỷ đồng để làm ăn nhưng không làm giấy mượn tiền. Từ năm 1998 đến nay ông Cường tránh mặt không trả lại tiền cho bà, bà có về Việt Nam và biết tin ông Cường bán đất cho ông Khải, bà Thu chưa lấy đủ tiền nên bà có liên hệ với ông Khải, bà Thu để đòi tiền nợ của ông Cường. Do ông Khải, bà Thu là chỗ quen biết nên đã đồng ý đưa cho bà 1.960.000.000 đồng và ông Khải yêu cầu bà ký biên nhận để giao cho ông Cường làm bằng chứng trừ tiền ông Cường. Bà nhận khoản tiền này là để xiết nợ ông Cường. Nay bà không đồng ý hoàn lại số tiền trên cho ông Cường vì ông Cường vẫn còn nợ bà số tiền 40.000.000 đồng. Còn việc tranh chấp giữa các bên bà không có ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1895/DSST ngày 29-7-2004 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Hủy hợp đồng chuyển nhượng đất lập ngày 07-10-2000 giữa ông Nguyễn Văn Cường và ông Đào Văn Khải, bà Lê Thị Thu về việc chuyển nhượng 3.739m2 đất tại 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12 (số mới 325/11A khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12).
Hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1627 ngày 27-11-2002 của Ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Khải và bà Thu.
Buộc ông Nguyễn Văn Cường phải giao lại cho ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu số tiền sang nhượng đất là 1.000.000.000 đồng.
Buộc ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu phải giao lại toàn bộ diện tích 3.739m2 đất có một căn nhà tại 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12 (số mới 325/11A) cho ông Nguyễn Văn Cường.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Cường thanh toán lại chi phí san lấp mặt bằng và xây tường bao quanh đất cho ông Khải, bà Thu số tiền là 400.000.000 đồng.
Tổng số tiền ông Cường phải thanh toán cho bà Thu, ông Khải là 1.400.000.000 đồng.
Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số2893/QĐ-KCTT ngày 12-11-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành án.
Đối với số tiền 1.960.000.000 đồng nếu ông Khải, bà Thu và bà Thuỷ, ông Cường có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác.
Kể từ khi có đơn xin thi hành án của ông Khải, bà Thu nếu ông Cường chưa thanh toán số tiền nói trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Án phí dân sự sơ thẩm: ông Cường chịu 26.000.000 đồng. Ông Khải và bà Thu chịu 18.000.000 đồng.
Ngày 23-8-2004 ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu có đơn kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 383/DSPT ngày 24-12-2004 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu.
Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 1695/DSST ngày 29-7-2004 đến 11-8-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử về quan hệ “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất” giữa ông Nguyễn Văn Cường với ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu.
Giao toàn bộ hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm điều tra thu thập chứng cứ và giải quyết lại theo thủ tục chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1691/2005/XX/DS-ST ngày 08-8-2005 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Bác yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Cường về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở, đất ở số 1627 ngày 27-11-2002 của Ủy ban nhân dân quận 12 cấp cho ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu, và yêu cầu hủy hợp đồng mua bán đất giữa ông Cường với bà Thu và ông Khải ghi ngày 07-10-2000.
Hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số2893/QĐ-KCTT ngày 12-11-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí.
Ngày 22-8-2005, ông Huỳnh Công Thư-đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Cường có đơn kháng cáo yêu cầu xét xử lại vụ kiện.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số62/2006/DS-PT ngày 27-02-2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí dân sự phúc thẩm.
Ngài 01-06-2006, ông Nguyễn Văn Cường có đơn khiếu nại với nội dung Tòa án cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất không tuân thủ về điều kiện, hình thức do pháp luật quy định giữa ông với ông Khải, bà Thu là chưa thỏa đáng, vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của ông.
Ngày 20-9-2006, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao có công văn số 2121 trả lời đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Cường.
Tại quyết định số150/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 04-12-2006 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số62/2006/DS-PT ngày 27-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với nhận xét:
Việc chuyển quyền sử dụng 3.739m2 đất giữa ông Nguyễn Văn Niên với ông Nguyễn Văn Cường năm 1992 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Cường với ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu lập ngày 07-10-2000 không có công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, diện tích đất đem chuyển nhượng chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bị vô hiệu.
Về số tiền chuyển nhượng đất: Ông Cường xác nhận ông Khải, bà Thu đã trả cho ông 1.000.000.000 đồng, số tiền còn lại là 1.960.000.000 đồng ông Khải, bà Thu tự ý đem trả lại cho bà Nguyễn Thanh Thủy mà không có sự đồng ý của ông. Ông Khải, bà Thu xác nhận trả cho ông Cường 1.000.000.000 đồng và trả bà Thủy 1.960.000.000 đồng theo yêu cầu của ông Cường nhưng ông Khải, bà Thu không xuất trình được một tài liệu nào chứng minh việc trả tiền cho bà Thủy có sự đồng ý của ông Cường. Giấy biên nhận tiền giữa bà Thủy và ông Khải không có chữ ký của ông Cường, không ghi rõ ngày, tháng, năm và không nêu rõ là trả tiền gì. Hơn nữa, việc cấn trừ nợ này cũng chưa được làm rõ trong mối quan hệ giữa ông Cường, bà Thủy với ông Khải, bà Thu.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm tuyên xử bác yêu cầu của ông Cường về việc hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 1627 ngày 27-11-2002 của Ủy ban nhân dân quận 12 cấp cho ông Khải, bà Thu và yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất lập ngày 07-10-2000 giữa ông Cường với ông Khải, bà Thu là không đúng, trái với các quy định tại Điều 691 Bộ luật dân sự năm 1995, Điều 30 Luật đất đai năm 1993 và quy định tại điểm a, tiểu mục 2.3 mục 2 Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm dân sự số 1691/2005/DSST ngày 08-8-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm số62/2006/DS-PT ngày 27-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị và giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Căn nhà và đất tại số 1683/3B khu phố 3, phường An Phú Đông, huyện Hóc Môn (nay là số 325/11A khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12), thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn Niên chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Cường có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã An Phú Đông, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh năm 1992. Sau khi ký kết hợp đồng mua bán, ông Cường sử dụng nhà, đất hợp pháp và không có ai tranh chấp nên theo quy định của pháp luật thì ông Cường là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất trên. Ngày 07-10-2000, ông Cường ký hợp đồng chuyển nhượng 3.739m2 đất cho ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu với giá 2.960.000.000 đồng nhưng không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và diện tích đất này chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ký hợp đồng ông Khải, bà Thu đã giao cho ông Cường 1 tỷ đồng và ông Cường đã giao đất cho ông Khải, bà Thu. Ông Khải, bà Thu nhận đất, xây tường làm cổng, cải tạo nhà, xây nhà bảo vệ, làm thủ tục hợp thức hóa và đã được ủy bản nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà trên diện tích đất chuyển nhượng. Như vậy, mặc dù ông Cường chuyển nhượng đất khi đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng đất chưa tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng, nhưng bên mua là ông Khải, bà Thu đã nhận đất, xây tường rào, xây nhà bảo vệ và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 và điểm b tiểu mục 2.3 mục II Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cường và ông Khải, bà thu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về số tiền chuyển nhượng đất ông Cường cho rằng ông mới chỉ nhận của ông Khải, bà Thu 1.000.000.000 đồng, số tiền còn thiếu 1.960.000.000 đồng ông Cường cho rằng ông Khải, bà Thu tự ý giao 1.960.000.000 đồng cho bà Thủy mà không được sự đồng ý của ông là không có căn cứ chấp nhận; bởi vì theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã thể hiện ông Cường và bà Thủy có quan hệ bà con, trong quá trình làm ăn ông Cường có nợ tiền của bà Thủy nên bà Thủy nhận 1.960.000.000 đồng của ông Khải, bà Thu để trừ nợ. Chính ông Cường cũng đã ký xác nhận là đã nhận đủ 2.960.000.000 đồng vào giấy biên nhận ngày 02-10-2001 sau thời điểm ông Khải giao tiền cho bà Thủy; đồng thời để giúp ông Khải, bà Thu làm thủ tục hợp thức hóa nhà đất và đồng ý cho ông Khải, bà Thu san lấp đất và khi ông Khải, bà Thu đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ông Cường đều biết và không phản đối khiếu nại, nên có cơ sở xác định ông Cường đồng ý để bà Thủy nhận số tiền 1.960.000.000 đồng của ông Khải, bà Thu trả theo hợp đồng chuyển nhượng đất và trừ vào số tiền ông còn nợ bà Thủy. Khi giải quyết vụ án Tòa án các cấp đã đưa bà Thủy vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng pháp luật; đồng thời bà Thuỷ cũng xác nhận đã nhận số tiền 1.960.000.000 đồng do ông Khải, bà Thu giao để trừ vào số tiền ông Cường nợ bà, phía ông Cường cũng khai nhận có nợ tiền bà Thủy, do đó Tòa án các cấp đã xác định có việc ông Cường đồng ý nhận số tiền theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng cách để ông Khải, bà Thu trả tiền cho bà Thủy là có căn cứ.
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
Không chấp nhận kháng nghị số150/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 04-12-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 62/2006/DSPT ngày 27-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Cường (ủy quyền cho ông Huỳnh Công Thư làm đại diện) với bị đơn là ông Đào Văn Khải và bà Lê Thị Thu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thanh Thủy.
Lý do không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC:
Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có vi phạm các quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng, nhưng theo quy định của Điều 50 Luật đất đai 2003 và điểm b tiểu mục 2.3 mục II Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này. Đã có đủ căn cứ để khẳng định các bên đã thực hiện đầy đủ việc thanh toán theo hợp đồng.