Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Ly hôn và tranh chấp tài sản khi ly hôn"

Chủ đề   RSS   
  • #265177 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Ly hôn và tranh chấp tài sản khi ly hôn"

    Số hiệu

    17/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Ly hôn và tranh chấp tài sản khi ly hôn"

    Ngày ban hành

    06/06/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 09 tháng 5 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “lý hôn, tranh chấp tài sản khi ly hôn” giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Chị Võ Kim Loan sinh năm 1970;

    Bị đơn: Anh Huỳnh Công Khanh sinh năm 1963;

    Cả nguyên đơn và bị đơn cùng trú tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Nguyễn Thị Xem sinh năm 1939; trú tại số 630 Wles Treet, Stpunl MM 55101 Hoa Kỳ; tạm trú tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ;

    2. Chị Nguyễn Kim Oanh sinh năm 1972;

    3. Anh Đoàn Văn Thi sinh năm 1969;

    4. Chị Nguyễn Phụng Liên sinh năm 1972;

    Chị Oanh, anh Thi và chị Liên cùng trú tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ;

    5. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.

    NHẬN THẤY:

    1. Theo đơn khởi kiện ngày 04-5-2003 và các lời khai tại Toà án, chị Võ Kim Loan trình bày: Chị và anh Huỳnh Công Khanh chung sống từ năm 1986, nhưng đến năm 2001 mới đăng ký kết hôn. Hai người có 1 con chung là cháu Huỳnh Thanh Tân sinh năm 1989. Do mẫu thuẫn vợ chồng, chị Loan xin ly hôn.

    Về tài sản chung gồm có:

    - Năm 2000, mẹ chị là Nguyễn Thị Xem ở nước ngoài gửi tiền về cho vợ chồng xây cất căn nhà kiên cố trên diện tích 200m2 đất thổ cư của ông Huỳnh Công Khế (bố anh Khanh) cho 2 vợ chồng có trị giá khoảng 200.000.000 đồng. Các vật dụng trong nhà do mẹ chị cùng các chị em của chị ở nước ngoài mua sắm cho vợ chồng gồm: 1 xe Honda do anh Khanh đứng tên; 2 tủ lạnh; 2 máy lạnh; 1 cassette; 3 tủ đứng.

    Về các tài sản khác gồm có:

    - Thửa đất có diện tích 856m2 tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13-4-2001 đứng tên anh Huỳnh Công Khanh.

    - Thửa đất 10.800m2 tại ấp Thới Hưng, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ đứng tên anh Huỳnh Công Khanh.

    - Thửa đất 1.359m2 tại ấp Thới Hưng, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 24-7-2000 đứng tên bà Huỳnh Thị Rê (là người sang nhượng).

    Chị Loan khai rằng, thửa đất 10.800m2 và thửa 856m2 là do bà Xem mẹ của chị gửi tiền về nhờ vợ chồng chị mua (bà Xem hiện cư trú tại Mỹ) và anh Khanh đứng tên giùm. Còn thửa đất 1.359m2 do anh trai chị là Võ Văn Tài ở nước ngoài gửi tiền về nhờ chị mua và đứng tên giùm. Chị Loan xác định thửa đất  trên không phải là tài sản chung của vợ chồng nên không đồng ý chia khi ly hôn.

    2. Anh Khanh đồng ý ly hôn với chị Loan và công nhận các tài sản chung của vợ chồng như chị Loan khai.

    Về ba thửa đất mà chị Loan khai là do cha mẹ ở nước ngoài gửi tiền về để mua trong đó thửa 856m2 và thửa 10.800m2 anh đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn thửa 1.359m2 chị Loan đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì anh Khanh cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng nên yêu cầu chia đôi. Sau đó, anh Khanh thay đổi lời khai và cho rằng bà Xem gửi tiền về cho vợ chồng và vợ chồng anh đã dùng tiền được cho để mua thửa đất 856m2 và 10.800m2 đều do anh đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên hai thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng. Về thửa đất 1.359m2 là do anh Tài gửi tiền về nhờ vợ chồng anh mua hộ nên không phải là tài sản chung của vợ chồng anh.

    3. Bà Nguyễn Thị Xem khai rằng bà có gửi tiền về nhờ chị Loan, anh Khanh mua hai thửa đất có diện tích 10.800m2 và anh Khanh chỉ là người đứng tên mua giùm trên giấy tờ để sau này bà hồi hương về Việt Nam có đất làm nhà ở và sinh sống. Hai thửa đất này không phải là tài sản chung của vợ chồng chị Loan, anh Khanh, nên bà yêu cầu anh Khanh, chị Loan trả lại đất cho bà.

    4. Về các khoản nợ của vợ chồng anh Khanh và chị Loan đều khai thống nhất các khoản nợ và đồng ý trả.

    Tại bản án sơ thẩm số 126/HNST ngày 17-12-2003, Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ), áp dụng Điều 85, khoản 1 Điều 89, Điều 90, khoản 2 Điều 92, Điều 94, Điều 95 và Điều 97 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quyết định:

    Về quan hệ hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn của chị Võ Kim Loan và anh Huỳnh Công Khanh.

    Về con chung: Chị Võ Kim Loan được trực tiếp nuôi cháu Huỳnh Thanh Tân sinh năm 1989, anh Khanh không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm viếng và chăm sóc con chung cho anh Khanh không ai được ngăn cản.

    Về tài sản chung:

    Giao cho cơ quan thi hành án tổ chức bán đấu giá căn nhà toạ lạc trên mảnh đất 200 m2 tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ do anh Huỳnh Công Khanh đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000594 ngày 20-6-1998; chị Loan và anh Khanh mỗi người được nhận 50% trên số tiền bán được.

    Chị Võ Kim Loan và anh Huỳnh Công Khanh có trách nhiệm trả các phần nợ như sau:

    + Chị Loan trả cho:

    - Ông Đoàn Văn Thí 2,5 lượng vàng 24k loại 99,9%;

    - Bà Nguyễn Phụng Liên 15.000.000 đồng;

    - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thốt Nốt 13.278.700 đồng;

    - Bà Nguyễn Kim Oanh là 18.375.000 đồng.

    + Anh Khanh trả cho:

    - Ông Đoàn Văn Thí 2,5 lượng vàng 24k loại 99,9%;

    - Bà Nguyễn Phụng Liên 15.000.000 đồng;

    - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thốt Nốt 13.278.700 đồng;

    - Bà Nguyễn Kim Oanh 18.375.000 đồng.

    Về tài sản là quyền sử dụng đất:

    Chị Võ Kim Loan được tiếp tục quản lý đứng tên quyền sử dụng đất diện tích 1.359 m2 tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 214 ngày 09-12-2002 do bà Huỳnh Thị Rê đứng tên. Chị Loan được tiến hành các thủ tục chuyển tên từ bà Huỳnh Thị Rê sang tên chị Loan.

    Anh Huỳnh Công Khanh có trách nhiệm giao trả cho bà Nguyễn Thị Xem đã uỷ quyền hợp pháp cho chị Võ Kim Loan đứng tên quyền sử dụng đất:

    - Phần diện tích 856m2 tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ thuộc thửa 1907 tờ bản đồ số 2 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00047 ngày 13-4-2001 do Uỷ ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp cho anh Huỳnh Công Khanh.

    - Phần diện tích 10.800m2 đất tọa lạc tại ấp Thới Hưng, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt thuộc thửa 56, 57 tờ bản đồ 05 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 000173 ngày 24-7-2000 do Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp cho anh Huỳnh Công Khanh.

    - Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt thu hồi 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000173 ngày 24-7-2000 và số 000447 ngày 13-4-2001 do Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp cho anh Huỳnh Công Khanh để cấp lại cho chị Võ Kim Loan theo ủy quyền hợp pháp của bà Nguyễn Thị Xem.

    Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Võ Kim Loan phải nộp 50.000 đồng (chuyển 50.000 đồng dự phí của chị Loan đã nộp theo biên lai số 000842 ngày 06-8-2003 thành án phí)

    Bà Xem được nhận lại 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 000942 ngày 10-11-2003.

    Án phí chia tài sản chị Võ Kim Loan phải chịu 3.648.500 đồng; anh Huỳnh Công Khanh phải chịu 3.648.500 đồng.

    Án phí dân sự sơ thẩm chị Loan phải chịu 2.420.000 đồng.

     Anh Huỳnh Công Khanh  phải chịu 2.420.000 đồng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

    Ngày 31-12-2003, anh Khanh có đơn kháng cáo cho rằng việc giải quyết ly hôn chưa thỏa đáng và chia tài sản không công bằng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 13/HNPT ngày 08-4-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh căn cứ khoản 1 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự y án sơ thẩm.

    Căn cứ Điều 467 và Điều 690 Bộ luật dân sự, tuyên xử:

    Anh Huỳnh Công Khanh có trách nhiệm giao trả cho bà Nguyễn Thị Xem đã ủy quyền hợp pháp cho chị Võ Kim Loan đứng tên quyền sử dụng đất:

    - Phần đất diện tích 856m2 tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ thuộc thửa 1970 tờ bản đồ số 02 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000447 ngày 13-4-2001 do Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp cho anh Huỳnh Công Khanh.

    - Phần diện tích 10.800m2 tọa lạc  tại ấp Thới Hưng, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ thửa 56,57 tờ bản đồ số 05 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000173 ngày 24-7-2000 do Ủy ban nhân dân cấp cho anh Huỳnh Công Khanh.

    - Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt thu hồi 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000173 ngày 24-7-2000 và số 000447 ngày 13-4-2001 do Ủy ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp cho anh Huỳnh Công Khanh để cấp lại cho chị Võ Kim Loan theo ủy quyền hợp pháp của bà Nguyễn Thị Xem.

    Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Huỳnh Công Khanh có đơn khiếu nại cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm xét xử không công bằng, ba thửa đất do vợ chồng anh mua, nhưng Tòa án lại xác định đất của bà Xem và giao cho chị Loan sử dụng là không đúng.

    Tại Quyết định số43/2007/DS-KN ngày 06-4-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định:

    “Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì tuy tháng 9-2001 anh Huỳnh Công Khanh mới đăng ký kết hôn với chị Võ Kim Loan, nhưng anh Khanh và chị Loan đã tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau từ năm 1986. Trong thời gian chung sống, anh Khanh đứng tên mua hai thửa đất, một thửa diện tích 10.800m2, một thửa diện tích 856m2; chị Loan đứng tên mua thửa đất diện tích 1.359m2.

    Theo lời khai của chị Loan thì tiền mua 1.359 m2 là do anh Võ Văn Tài (anh trai chị Loan) ở nước ngoài gửi tiền về và chị chỉ đứng tên giùm, nên không phải là tài sản chung của vợ chồng; tại phiên tòa sơ thẩm ngày 17-12-2003 và tại phiên Tòa phúc thẩm ngày 08-4-2004, anh Khanh cũng công nhận diện tích 1.359m2 đất mà chị Loan đứng tên là của anh Tài gửi về mua, nên anh Khanh cũng xác định không phải là tài sản chung. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích 1.359m2 đất nêu trên không phải là tài sản chung của vợ chồng là có căn cứ. Tuy nhiên đối với thửa đất 1.359m2 này không phải là tài sản của anh Khanh chị Loan lẽ ra không giải quyết trong vụ án ly hôn, chia tài sản khi ly hôn giữa anh Khanh và chị Loan nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã giải quyết và giao cho chị Võ Kim Loan được tiếp tục quản lý đứng tên quyền sử dụng đất diện tích 1.359m2 tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 214 ngày 09-12-2002 do bà Huỳnh Thị Rê đứng tên, chị Loan được tiến hành các thủ tục chuyển tên từ bà Huỳnh Thị Rê sang tên chị Loan là không đúng pháp luật.

    Đối với 2 thửa đất 10.800m2 và 856m2, tuy anh Khanh đứng tên mua và kê khai quyền sử dụng đất, được Uỷ ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà Nguyễn Thị Xem mẹ chi Loan cho rằng đất là của bà, do bà gửi tiền về nhờ chị Loan, anh Khanh mua; trong khi đó, tại Toà án, anh Khanh và chị Loan đều xác nhận tiền mua hai thửa đất này là của bà Xem (nhưng anh Khanh cho rằng bà Xem gửi tiền về để mua đất cho vợ chồng anh, còn bà Xem và chị Loan thì không thừa nhận có việc bà Xem cho tiền). Do anh Khanh không xuất trình được chứng cứ chứng minh về việc bà Xem đã cho vợ chồng tiền để mua hai thửa đất này, nên phải xác định tiền mua đất là của bà Xem gửi về nhờ vợ chồng anh Khanh, chị Loan mua hộ.

    Tuy nhiên, do bà Xem đang định cư ở nước ngoài và không có đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, nên bà không thuộc đối tượng được sở hữu bất động sản tại Việt Nam. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm quyết định anh Huỳnh Công Khanh có trách nhiệm giao trả cho bà Nguyễn Thị Xem đã uỷ quyền hợp pháp cho chị Võ Kim Loan đứng tên quyền sử dụng đất, là không đúng pháp luật.

    Vì vậy, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ phần quyết định về phân chia tài sản của bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ phần quyết định về phân chia tài sản của bản án dân sự sơ thẩm số 126/HNST ngày 17-12-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ); giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

                XÉT THẤY:

    Chị Võ Kim Loan chung sống với anh Huỳnh Công Khanh từ năm 1986, nhưng đến tháng 9 năm 2001 mới đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, anh Khanh đã đứng tên mua 2 thửa đất (một thửa có diện tích 10.800m2 và một thửa có diện tích 856m2) còn chị Loan đứng tên mua một thửa đất có diện tích 1.359m2. Quá trình giải quyết vụ án chị Loan cho rằng tiền mua 1.359m2 đất là do anh Võ Văn Tài (anh chị Loan) ở nước ngoài gửi tiền về và chị chỉ đứng tên mua giùm nên không phải là tài sản chung của vợ chồng. Tại phiên toà sơ thẩm anh Khanh cũng công nhận diện tích 1.359m2 đất mà chị Loan đứng tên mua là bằng nguồn tiền của anh Tài gửi về nên anh Khanh cũng xác định không phải là tài sản chung của vợ chồng; do đó Toà án cấp sơ thẩm xác định 1.359m2 đất nêu trên không phải là tài sản chung của vợ chồng là có căn cứ và không thuộc phạm vi giải quyết trong vụ án ly hôn, chia tài sản khi ly hôn giữa anh Khanh và chị Loan. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm vẫn xem xét giải quyết và giao cho chị Võ Kim Loan tiếp tục quản lý sử dụng và được tiến hành các thủ tục chuyển tên từ bà Huỳnh Thị Rê sang tên chị Loan là không đúng pháp luật. Toà án cấp phúc thẩm đã không phát hiện ra sai sót này của Toà án cấp sơ thẩm, nhưng lại quyết định y án sơ thẩm về nội dung này cũng không đúng pháp luật.

    Đối với 2 thửa đất có diện tích 10.800 m2 và 856 m2, tuy anh Khanh đứng tên mua và kê khai, được Uỷ ban nhân dân huyện Thốt Nốt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bà Nguyễn Thị Xem cho rằng 2 thửa đất này do bà gửi tiền về nhờ chị Loan, anh Khanh mua. Tại Toà án, anh Khanh xác nhận tiền mua 2 thửa đất này là của bà Xem, nhưng lại cho rằng bà Xem gửi tiền về cho vợ chồng anh để vợ chồng anh mua đất nên quyền sử dụng 2 thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên anh Khanh không xuất trình được chứng cứ chứng minh có việc bà Xem đã cho vợ chồng anh tiền để mua hai thửa đất trên. Chị Loan khai là bà Xem gửi tiền về nhờ vợ chồng chị mua đất và đứng tên hộ. Với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định tiền để mua 2 thửa đất nêu trên là của bà Xem là có căn cứ.

    Tuy nhiên, do bà Xem đang định cư ở nước ngoài và không có đầu tư kinh doanh vào Việt Nam, nên theo quy định của pháp luật thì bà Xem không thuộc đối tượng sở hữu bất động sản tại Việt Nam. Anh Khanh, chị Loan chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, được chính quyền địa phương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp này phải định giá giá trị quyền sử dụng đất và nếu chị Loan hoặc anh Khanh có nhu cầu sử dụng thì giao cho anh Khanh hoặc chị Loan sử dụng, đồng thời buộc thanh toán cho bà Xem bằng đúng số tiền mà bà đã gửi về mua đất. Nếu sau khi thanh toán còn dư ra (trường hợp định giá cao hơn giá mua) thì bà Xem sẽ được hưởng 1/2 số tiền đó, còn lại 1/2 là tài sản chung của chị Loan và anh Khanh để chia. Trong trường hợp giá trị quyền sử dụng đất nhỏ hơn số tiền mà bà đã gửi về mua thì chỉ phải trả cho bà Xem giá trị theo định giá mới đúng. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định hai thửa đất trên là của bà Xem và chấp nhận sự uỷ quyền của bà Xem cho chị Loan đứng tên là không đúng pháp luật.

    Mặt khác, khi giải quyết vụ án ly hôn, tranh chấp tài sản khi ly hôn giữa chị Loan và anh Khanh, thì anh Khanh cho rằng 2 thửa đất trên là tài sản chung của vợ chồng. Ngày 07-11-2003, bà Nguyễn Thị Xem có đơn cho rằng 2 thửa đất nêu trên là của bà yêu cầu vợ chồng chị Loan, anh Khanh trả lại. Như vậy, có cơ sở xác định bà Xem có phản tố, lẽ ra buộc bà bhXem nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu của bà mới đúng. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm giải quyết các yêu cầu của bà Xem khi chưa buộc bà nộp tiền tạm ứng án phí là không đúng.

    Do có những sai lầm trên đây cần phải xét xử sơ thẩm lại và do đó phải tính lại án phí, cho nên cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm về quyết định chia tài sản, án phí dân sự.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

                 QUYẾT ĐỊNH:

    1.Chấp nhận Kháng nghị số43/2007/DS-KN ngày 06-4-2007 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao;

    2. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 13/HNPT ngày 08-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố  Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 126/HNST ngày 17-12-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) về vụ án “ly hôn, tranh chấp tài sản khi ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Võ Kim Loan với bị đơn là anh Huỳnh Công Khanh về phần các quyết định: “về tài sản chung; về phần đất; về án phí chia tài sản và án phí dân sự”;

    3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy một phần:

    Tòa án đã giải quyết không đúng về quyền sử dụng đất, không tiến hành thủ tục phản tố.

     
    3389 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận