Số hiệu
|
03/2007/HS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Lương Thế Toại không phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"
|
Ngày ban hành
|
07/02/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
……..
Ngày 07 tháng 02 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Lương Thế Toại sinh năm 1955; đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Thanh Miếu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; tạm trú tại tổ 19 phố Đoàn Kết, phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; con ông Lương Thế A (tức Đoàn) và bà Trần Thị Trâm (đều đã chết); nghề nghiệp: buôn bán tự do; trình độ văn hóa: lớp 5/10; có vợ là Nguyễn Thị Đức và có 3 con; về nhân thân:
- Tháng 11-1989, bị Công an tỉnh Vĩnh Phú (cũ) bắt tạm giam về hành vi giết người, sau đó được đình chỉ điều tra.
- Ngày 06-01-1993, bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt tạm giam về hành vi giả mạo giấy tờ mua bán xe ôtô, đến ngày 12-5-1994 được đình chỉ điều tra.
- Ngày 26-11-1998, bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt tạm giam về hành vi giả mạo giấy tờ mua bán xe ôtô, đến ngày 24-5-1999 được đình chỉ điều tra.
- Ngày 18-8-1999, bị Công an tỉnh Quảng Trị bắt tạm giam về hành vi buôn lậu xe ôtô, được trả tự do ngày 16-11-1999 và được đình chỉ điều tra ngày 24-2-2000.
Trong vụ án này, Lương Thế Toại bị bắt tạm giam từ ngày 14-5-2003 đến ngày 14-01-2004, bị bắt lại ngày 19-10-2005 và được trả tự do tại phiên toà phúc thẩm ngày 18-11-2005.
Người bị hại: anh Đào Duy Đông, trú tại Khu A thị trấn Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
NHẬN THẤY:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì khoảng tháng 10-1997, Lương Thế Toại mua một chiếc xe ôtô NISSAN bốn chỗ ngồi của anh Cao Huy Dương. Hai bên thoả thuận giá 27.000USD và Dương phải làm thủ tục đăng ký xe. Toại đã trả trước cho Dương 10.000USD và đưa chứng minh thư, hộ khẩu KT3 của chị Nguyễn Thị Đức (là vợ Toại) cho Dương để Dương làm thủ tục đăng ký xe. Sau đó, Dương đã đưa cho Toại giấy đăng ký xe biển số 52N-6622 do Công an thành phố Hồ Chí Minh cấp cùng giấy lưu hành xe ôtô mang tên Nguyễn Thị Đức. Toại nhận xe cùng giấy tờ và trả hết tiền cho Cao Huy Dương.
Ngày 27-02-1998, Toại bán chiếc xe này cho anh Trần Quốc Cường (trú tại nhà số 36 phố Đinh Tiên Hoàng, phường Đa Kao, quận I, thành phố Hồ Chí Minh) với giá 27.500USD và có thoả thuận nếu giấy tờ xe không hợp pháp thì bên mua sẽ trả lại xe và bên bán trả lại tiền. Ngày 06-3-1998, anh Cường bán xe này cho anh Nguyễn Hoàng Triệu với giá 30.500USD. Ngày 12-3-1998 anh Triệu lại bán xe cho anh Lê Thành Dân với giá 37.000USD. Khi anh Dân làm thủ tục chuyển vùng đăng ký thì phát hiện xe ôtô biển số 52N-6622 có nguồn gốc không hợp pháp. Anh Dân đã trả lại xe cho anh Triệu và anh Triệu trả lại xe cho anh Cường.
Anh Cường mang xe trả lại cho Toại và nói rõ giấy tờ xe là không hợp pháp. Lúc đầu Toại không nhận nhưng khi anh Cường nói sẽ đưa ra pháp luật giải quyết thì Toại nhận lại xe và trả cho anh Cường 10.000USD, còn nợ lại 17.500USD. Sau đó, Toại đã mang xe ra chợ xe ôtô thành phố Hồ Chí Minh bán nhưng không có người mua.
Ngày 14-7-1998, qua sự giới thiệu của anh Đào Văn Hải (là bạn của Toại), Toại cùng vợ đến nhà anh Đào Duy Đông (em trai anh Hải) là chủ cửa hàng kinh doanh vàng bạc ở thị trấn Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đặt xe ôtô cùng giấy tờ xe để vay 300.000.000đồng trong thời hạn 30 ngày với lãi suất 03%. Toại nói với anh Đông là xe ôtô có giấy tờ hợp pháp, đăng ký chính chủ. Anh Đông đồng ý cho Toại vay 300.000.000đồng. Toại viết giấy nhận nợ với nội dung là: Toại mua vàng trang sức của anh Đông còn thiếu 300.000.000đồng và đặt lại xe ôtô cùng giấy tờ xe.
Quá thời hạn thoả thuận, anh Đông yêu cầu Toại đến nhận xe và trả lại tiền nhưng Toại nói không có tiền trả. Theo anh Đông khai thì Toại còn chửi bới, đe dọa và không chịu trả tiền.
Ngày 26-11-1998, Toại bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi giả mạo giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan Nhà nước, của tổ chức xã hội. Toại không khai đã đặt xe 52N-6622 cho anh Đông mà khai đã trả lại xe cho Cao Huy Dương. Do chưa bắt được Cao Huy Dương nên ngày 24-5-1999 Công an thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định đình chỉ điều tra đối với Toại.
Theo kết quả giám định ngày 04-5-1999 và ngày 04-3-2002 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an thì toàn bộ hồ sơ Hải quan của chiếc xe nêu trên (tờ khai nguồn gốc xe nhập khẩu, tờ khai hàng hoá nhập khẩu, thông báo thuế, giấy bán xe...) hoàn toàn là giả mạo.
Sau khi đòi tiền nhiều lần không được, ngày 28-3-2002 anh Đông có đơn đề nghị cơ quan pháp luật giải quyết, đồng thời giao xe ôtô biển số 52N-6622 cho Cơ quan cảnh sát điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã triệu tập Toại đến để lấy lời khai thì Toại lại trốn khỏi nơi cư trú. Ngày 22-8-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Lương Thế Toại về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng Toại đã bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra lệnh truy nã. Đến ngày 14-5-2003 Toại mới ra đầu thú và nộp 300.000.000đồng để trả cho anh Đông.
Tại cơ quan điều tra, Toại khai khi mua xe ôtô của Cao Huy Dương thì Toại không biết giấy tờ xe ôtô là giả. Khi vay tiền, Toại nói với anh Đông là xe có nguồn gốc hợp pháp với mục đích là để cho anh Đông tin và cho vay tiền. Tháng 8-1998, Toại có đưa 220.000.000đồng cho anh Hải để nhờ anh Hải trả cho anh Đông, nhưng anh Đông không nhận. Sau đó, Toại bị Công an thành phố Hồ Chí Minh và Công an tỉnh Quảng Trị bắt giữ chứ Toại không trốn tránh.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/HSST ngày 22-3-2004, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; các điểm b và o khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; các điểm a và b khoản 1 Điều 41; khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Lương Thế Toại 06 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; xác nhận Toại đã tự nguyện thanh toán cho anh Đào Duy Đông 300.000.000đồng; tịch thu, phát mại chiếc xe ôtô NISSAN VIP biển số 52N-6622, có số máy là VG30-639998N, có số khung là 172281 của Lương Thế Toại để sung công.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Lương Thế Toại kháng cáo kêu oan.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1172/2005/HSPT ngày 18-11-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng điểm d khoản 2 Điều 248; các khoản 1 và 2 Điều 107; Điều 251 và khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng hình sự; tuyên bố Lương Thế Toại không phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 37/HSST ngày 22-3-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và đình chỉ vụ án; trả tự do cho Lương Thế Toại ngay tại phiên toà; trả lại chiếc xe ôtô NISSAN VIP biển số 52N-6622, có số máy là VG30-639998N, có số khung là 172281 cho Toại để tiến hành nộp thuế truy thu, đăng ký sử dụng mới với các cơ quan có thẩm quyền.
Tại Quyết định kháng nghị số31/2006/HS-TK ngày 25-8-2006, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng Lương Thế Toại tuy có hành vi gian dối khi vay tiền của anh Đông, nhưng để kết án Toại về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chưa có đủ căn cứ vững chắc. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng ý thức chiếm đoạt của Toại phát sinh sau khi nhận được tiền của anh Đông, nên hành vi của Lương Thế Toại có dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Toà án cấp sơ thẩm cho rằng sau khi Toại bán xe cho anh Trần Quốc Cường và bị anh Cường trả lại xe thì Toại đã biết rõ xe ôtô có nguồn gốc giấy tờ không hợp pháp, nhưng Toại vẫn nói với anh Đào Duy Đông là hợp pháp để cầm cố và vay tiền của anh Đông nên đã kết án Lương Thế Toại về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chưa đủ căn cứ bởi lẽ, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì chưa đủ căn cứ để kết luận khi mua xe ôtô của Cao Huy Dương thì Lương Thế Toại đã biết hồ sơ xe là không hợp pháp. Trong hồ sơ vụ án chỉ có một lời khai của Cao Huy Dương (ở vụ án khác) thể hiện khi mua xe ôtô của Dương thì Toại không biết hồ sơ xe là giả. Đến ngày 04-5-1999 và ngày 04-3-2002, Viện khoa học hình sự Bộ Công an mới có kết quả giám định xác định toàn bộ hồ sơ Hải quan của chiếc xe ôtô nêu trên là giả mạo. Mặt khác, theo Toại khai thì Toại nói với anh Đông xe ôtô có giấy tờ hợp pháp chỉ nhằm mục đích để anh Đông tin và cho vay tiền.
Mặc dù chưa đủ căn cứ để kết luận Toại có ý thức chiếm đoạt tiền của anh Đông từ trước khi vay tiền của anh Đông. Nhưng có đủ căn cứ để kết luận sau khi hết thời hạn cho vay 30 ngày theo cam kết, anh Đông đã nhiều lần đòi tiền nhưng Toại chỉ khất lần hoặc tìm cách tránh mặt. Việc Toại khai vào tháng 8-1998 có đưa cho anh Đào Văn Hải (anh trai anh Đông) 220.000.000đồng để trả cho anh Đông nhưng anh Đông không nhận thì cũng chưa đủ căn cứ chứng minh. Tuy tháng 11-1998 Toại bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ và vào tháng 8-1999 bị Công an tỉnh Quảng Trị bắt giữ, nhưng đến tháng 11-1999 khi đã được Công an tỉnh Quảng Trị trả tự do thì Toại cũng không trả tiền cho anh Đông. Sau đó, anh Đông cùng với anh Đào Văn Hải đã nhiều lần đến đòi tiền và yêu cầu Toại lấy xe ôtô về nhưng Toại vẫn không trả tiền cho anh Đông. Theo anh Đông khai có lần đến đòi thì Toại còn chửi bới, đe dọa. Ngày 28-3-2002, anh Đào Duy Đông mới có đơn đề nghị cơ quan pháp luật giải quyết, đồng thời giao xe ôtô biển số 52N-6622 cho Cơ quan cảnh sát điều tra. Tháng 6-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã triệu tập Toại đến để lấy lời khai, Toại thừa nhận có nợ tiền anh Đông, xin khất nợ và thanh toán dần với lý do làm ăn thua lỗ nên chưa có tiền trả, nhưng sau đó Toại lại bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Đến ngày 22-8-2002 (sau gần 5 tháng), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc mới ra quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can đối với Toại về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhiều lần triệu tập Toại đến Cơ quan cảnh sát điều tra để làm việc nhưng Toại đều không có mặt. Ngày 10-10-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra ra lệnh truy nã đối với Toại nhưng đến ngày 14-5-2003, Toại mới ra đầu thú và nộp tiền để trả cho anh Đông. Như vậy, hành vi của Lương Thế Toại có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Lương Thế Toại đã dùng chiếc xe ôtô NISSAN VIP biển số 52N-6622, có số máy là VG30-639998N, có số khung là 172281 làm phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần phải được tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tịch thu chiếc xe ôtô của Lương Thế Toại để sung công là đúng nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào Công văn số 919/P3 ngày 22-8-2003 của Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an trả lời Công văn số 433/BC ngày 04-8-2003 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc để cho rằng chiếc xe ôtô NISSAN VIP biển số 52N-6622 của Lương Thế Toại đã được pháp luật công nhận, có giá trị về kinh tế và quyết định trả lại chiếc xe ôtô nêu trên cho Lương Thế Toại để tiến hành nộp thuế truy thu, đăng ký sử dụng mới với các cơ quan có thẩm quyền là không đúng pháp luật.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 285, Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 1172/2005/HSPT ngày 18-11-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử đối với Lương Thế Toại; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:
Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định tịch thu chiêc xe ô tô là phương tiện dùng vào việc phạm tội của bị cáo là đúng, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại quyết định trả lại cho bị cáo là không đúng pháp luật.