Quyết định giám đốc thẩm số 30/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”

Chủ đề   RSS   
  • #264972 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 30/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”

    Số hiệu

    30/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số30/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”

    Ngày ban hành

    06/12/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số30/2005/DS-GĐT

    NGÀY 06-12-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP 
    HợP ĐồNG MUA BÁN TÀI SảN”

     

    hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 6 tháng 12 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên Toà giám đốc th��m xét xử vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng Giang

    Trú tại: Nhà số 31/9 Tân Hòa Đông, phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc Trâm là người đại diện do nguyên đơn ủy quyền.

    Trú tại: DD9 cư xá Bắc Hải, phường 15, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh.

     Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Nghĩa.

    Trú tại: Nhà số 135/15D Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    - Bà Trần Thị Tình

    Trú tại: Nhà số 9 quốc lộ 1, khu phố 2, phường Tân Hiệp, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

     - Ông Trần Minh Đức (chồng bà Nghĩa).

    Trú tại: Nhà số 135/15D Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

    Nhận thấy:

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 23-10-1999 của ông Nguyễn Hoàng Giang và lời khai của ông Giang (do chị Trâm đại diện) trong quá trình giải quyết vụ án thì: Ngày 19-10-1995, bà Nguyễn Thị Nghĩa đến cơ sở của ông đặt mua 13.800 túi xách, giá 10.500 đồng/cái, thành tiền là 144.900.000 đồng. Việc mua bán chỉ thỏa thuận miệng, nhưng khi nhận tiền và giao hàng đều có ghi sổ ký nhận. Bà Nghĩa đã trả nhiều lần được 80.000.000 đồng. Sau đó, bà Nghĩa không trả nữa và yêu cầu ông đến gặp bà Trần Thị Tình là người cầm tiền của bà Nghĩa để lấy tiền. Ngày 17-8-1996, ông đến gặp bà Tình để lấy tiền thì bà Tình trả 1.800 USD tương đương 19.800.000 đồng. Tổng cộng số tiền bà Nghĩa và bà Tình đã trả ông là 99.800.000 đồng. Nay ông Giang yêu cầu bà Nghĩa trả cho ông số tiền còn lại là 45.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo quy định của ngân hàng từ ngày 17-8-1996 đến nay.

    Theo các lời khai của bà Nguyễn Thị Nghĩa là bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án thì: bà và bà Tình là bà con họ hàng xa. Khoảng tháng 10-1995, bà cho bà Tình mượn nhà để làn văn phòng giao dịch. Ngày 25-10-1995 bà đi cùng bà Tình đến cơ sở của ông Giang để mua túi xách. Người mua túi xách là bà Tình. Khi thương lượng thì bà thương lượng với ông Giang và có nói khi nào nhận tiền thì gọi ông Giang đến nhà bà nhận tiền. Sau đó, bà đã nhận tiền từ bà Đỗ Hồng Nga, bà Tình và bạn hàng của bà Tình để trả tiền cho ông Giang. Tính đến ngày 15-2-1996, bà đã trả cho ông Giang tổng cộng là 80.000.000 đồng, bà có ký tên vào sổ của ông Giang. Tháng 4-1996, bà không cho bà Tình mượn nhà làm văn phòng nữa, bà có báo cho ông Giang biết số tiền còn lại ông Giang nên gặp trực tiếp bà Tình để thanh toán. Từ đó, ông Giang không liên hệ với bà. Nay ông Giang yêu cầu bà trực tiếp trả nợ, bà không đồng ý.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 10-3-2000, Toà án nhân dân quận 6 đã căn cứ vào Điều 10, 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Điều 321, 322, 421, 431 Bộ luật dân sự; Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án, quyết định:

    Bà Nguyễn Thị Nghĩa có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Hoàng Giang 45.100.000 đồng tiền mua túi xách còn thiếu tại thời điểm tháng 10-1995 và trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự từ ngày 17-8-1996 đến nay là 31.849.620 đồng, tổng cộng 76.949.620 đồng.

    Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán: một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    Kể từ ngày ông Giang có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Nghĩa không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bà Nghĩa còn phải chịu khoản tiền lãi tính theo lãi nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành.

    án phí dân sự sơ thẩm là 3.847.481 đồng do bà Nguyễn Thị Nghĩa nộp, ông Nguyễn Hoàng Giang được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 7898 ngày 12-11-1999 của Đội thi hành án quận 6.

    Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

    Ngày 24-3-2000 bà Nghĩa kháng cáo đề nghị Toà án xử bác yêu cầu đòi nợ của ông Giang.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 795/DSPT ngày 24-5-2000, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh căn cứ vào khoản 2 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án, quyết định sửa một phần án sơ thẩm:

    Buộc bà Nguyễn Thị Nghĩa có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Hoàng Giang số nợ vốn còn thiếu là 45.100.000 đồng và nợ lãi 32.246.500 đồng. Tổng cộng vốn lãi là 77.346.500 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    Kể từ ngày nguyên đơn có đơn xin thi hành án đến khi bị đơn thanh toán xong số nợ vốn trên, bị đơn còn phải trả lãi hàng tháng theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    áp phí dân sự sơ thẩm 3.867.000 đồng bà Nghĩa chịu. Hoàn lại án phí tạm nộp 1.127.000 đồng cho ông Giang theo biên lai số 7898 ngày 12-11-1999. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí kháng cáo 50.000 đồng cho bà Nghĩa theo biên lai số 1198 ngày 24-3-2000.

    án xử chung thẩm có hiệu lực thi hành.

    Sau khi xử phúc thẩm, bà Nghĩa khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm 
    số 795/DSPT ngày 24-5-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 18-5-2001, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao có công văn 
    số 507/CV/DS trả lời cho bà Nghĩa biết là không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Nghĩa nêu trong đơn khiếu nại.

    Ngày 10-7-2000, Đội thi hành án quận 6, thành phố Hồ Chí Minh có quyết định số 219/THA quyết định thi hành bản án số 795/DSPT ngày 24-5-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 25-12-2001, Đội thi hành án quận 6, thành phố Hồ Chí Minh có quyết định số 01/THA cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp kê biên, định giá, phát mãi tài sản. Ngày 7-1-2002, Đội thi hành án quận 6, thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản kê biên nhà 135/15D Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh giao cho bà Nghĩa quản lý sử dụng, không được mua bán, chuyển nhượng, thế chấp.

    Ngày 8-3-2002, bà Nghĩa tiếp tục khiếu nại và gửi kèm theo đơn khiếu nại giấy xác nhận của bà Tình đề ngày 2-1-2002 có nội dung “Tôi đặt mua một số hàng túi xách cho ông Giang quận 6, thành phố Hồ Chí Minh đi Nga. Do hàng hóa bị mất mát nên tôi chưa chi trả hết được cho ông Giang. Về vấn đề này tôi đã báo với ông Giang. Về phần thanh toán, khi làm hàng tôi có đặt cọc 10.000.000 đồng. Số tiền còn lại tôi có nhờ bà Nghĩa ở quận 6 thành phố Hồ Chí Minh chi 54.000.000 đồng. Số tiền còn lại 19.700.000 đồng do tôi trực tiếp chi trả cho ông Giang. Toàn bộ sự việc trên mua và bán giữa tôi và ông Giang không liên quan gì đến bà Nghĩa, bà Nghĩa chỉ là người chuyển giúp tiền khi tôi ở xa...”.

    Ngày 18-4-2002, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyết định kháng nghị số18/KN-VKSTC-KSXXDS kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm 
    số 795/DSPT ngày 24-5-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo hướng huỷ bản án sơ thẩm số 05 ngày 10-3-2000 của Toà án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và bản án phúc thẩm số 795 ngày 24-5-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số111/GĐT-DS ngày 21-6-2002, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã huỷ bản án sơ thẩm số 05/DSST ngày 10-3-2000 của Toà án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và bản án phúc thẩm 
    số 795/DSPT ngày 24-5-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử lại từ sơ thẩm theo hướng điều tra xác minh các chứng cứ do bà Nghĩa mới xuất trình và đưa bà Trần Thị Tình vào tham gia tố tụng để xác định ai là người mua bán túi xách với ông Giang từ đó mới có sơ sở xác định ai là người phải thanh toán số tiền còn thiếu cho ông Giang.

    Ngày 20-9-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án, đưa bà Trần Thị Tình vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và lấy lời khai của bà Tình.

    Ngày 20-11-2003, bà Trần Thị Tình có lời khai: Tôi có làm việc với ông Giang 3 lần về việc đặt hàng túi xách, những lần đi đặt hàng có bà Nghĩa đi cùng. Tôi chỉ biết lấy hàng và nhận tiền. Hàng túi xách tôi lấy chỗ ông Giang và nhận tiền từ bà Nghĩa. Cũng có lần bà Nghĩa trực tiếp trả tiền cho ông Giang. Hàng hóa do bà Nga là chủ ở Hà Nội yêu cầu bà Nghĩa. Trên cơ sở đó bà Nghĩa mới yêu cầu tôi đi lấy hàng. Hàng hóa thường là túi xách và quần áo. Tôi có mượn địa điểm nhà bà Nghĩa để giao dịch. Do lâu quá, nên không nhớ lấy của ông Giang bao nhiêu túi xách. Thật sự tôi nghĩ là bà Nghĩa đã trả hết cho ông Giang vì chủ yếu việc thanh toán tiền hàng là bà Nghĩa trực tiếp thanh toán cho ông Giang. Tôi chỉ lấy tiền lãi chênh lệch do mua bán hàng từ bà Nghĩa. 
    Ngày 2-1-2002, bà Nghĩa có tìm đến nhà tôi do cháu tôi dẫn đến gặp yêu cầu tôi nhận nợ thay cho bà Nghĩa vì bà Nghĩa sợ mất uy tín làm ăn. Bà Nghĩa đồng ý chi tiền cho tôi để trả cho ông Giang, trước tiên là đưa trước cho tôi 25.000.000 đồng để trả dần. Bà Nghĩa có hẹn vài ngày sẽ mang tiền đến, nhưng sau đó không đem đến. Theo tôi biết thì bà Nga ở Hà Nội không thanh toán tiền cho bà Nghĩa, do vậy bà Nghĩa không thanh toán cho ông Giang. Tôi có viết giấy xác nhận vào ngày 2-1-2002 nhưng vì lý do như đã trình bày ở trên. Vì hoàn cảnh quá khó khăn xa xôi, tôi không thể đến Toà được, do vậy tôi xin được phép vắng mặt trong quá trình Toà điều tra, hòa giải và xét xử.

    Ông Trần Minh Đức khai: Ngôi nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh là do Nhà nước cấp cho tôi từ năm 1978 và đã được hóa giá vào khoảng năm 1991. Việc bà Nghĩa bị ông Giang khởi kiện đòi nợ tiền mua bán tôi hoàn toàn không biết. Mặt khác, khi Đội thi hành án quận 6, thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản cưỡng chế kê biên thì không có mặt tôi, trong khi nhà này do tôi đứng tên. Nay tôi yêu cầu Toà án xem xét huỷ bỏ quyết định cưỡng chế thi hành án đối với căn nhà trên.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1453/DSST ngày 14-7-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ khoản 3 Điều 48 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Điều 298, 321, 322, khoản 2 Điều 313, Điều 400, 421 Bộ luật dân sự; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản; Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án, quyết định:

    Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng Giang do chị Nguyễn Thị Ngọc Trâm đại diện theo ủy quyền về việc đòi tiền mua túi xách còn thiếu đối với bà Nguyễn Thị Nghĩa.

    Buộc bà Nguyễn Thị Nghĩa có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Hoàng Giang số tiền 45.100.000 đồng tiền mua túi xách còn thiếu và trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự từ ngày 17-8-1996 đến nay là 40.231.896 đồng, tổng cộng là 85.331.896 đồng.

    Thời hạn thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Kể từ ngày ông Giang có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Nghĩa không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bà Nghĩa còn phải chịu khoản tiền lãi tính theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    Bác yêu cầu của bà Nghĩa và ông Đức xin huỷ bỏ việc kê biên của Đội thi hành án quận 6 đối với căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

    Tiếp tục duy trì việc kê biên căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6 của Đội thi hành án quận 6 ngày 07-01-2002 để đảm bảo việc thi hành án đối với số nợ trên.

    án phí dân sự sơ thẩm 4.246.594 đồng bà Nguyễn Thị Nghĩa phải chịu.

    án phí chênh lệch theo yêu cầu là 3.351.866 đồng ông Nguyễn Hoàng Giang phải nộp. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí do ông Giang đã nộp là 3.242.800 đồng theo biên lai thu số 000518 ngày 19-9-2002 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh. Ông Giang còn phải nộp 109.066 đồng.

    án xử sơ thẩm công khai.

    Ông Nguyễn Hoàng Giang do chị Nguyễn Thị Ngọc Trâm đại diện và bà Nguyễn Thị Nghĩa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án.

    Bà Trần Thị Tình và ông Trần Minh Đức được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn, được tính từ ngày nhận trích sao bản án.

    Ngày 28-7-2004, chị Trâm là người đại diện cho ông Giang theo ủy quyền kháng cáo xin miễn toàn bộ án phí.

    Ngày 26-7-2004, bà Nghĩa kháng cáo xin xem xét lại toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 30-3-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm. áp dụng Điều 298, Điều 321, Điều 322, khoản 2 Điều 313, Điều 400, Điều 421 Bộ luật dân sự, xử;

    Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng Giang do bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm đại diện theo ủy quyền về việc đòi tiền mua túi xách còn thiếu đối với bà Nguyễn Thị Nghĩa.

    Buộc bà Nguyễn Thị Nghĩa có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Hoàng Giang số tiền 45.100.000 đồng tiền mua túi xách còn thiếu và trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự từ ngày 17-8-1996 đến nay là 40.231.896 đồng. Tổng cộng là 85.331.896 đồng.

    Thời hạn thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật thi hành tại Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Kể từ ngày ông Giang có yêu cầu thi hành án, nếu bà Nghĩa không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bà Nghĩa còn phải chịu khoản tiền lãi tính theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    Bác yêu cầu của bà Nghĩa và ông Đức xin huỷ bỏ việc kê biên của Đội thi hành án quận 6 đối với căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

    Tiếp tục duy trì việc kê biên căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6 của Đội thi hành án quận 6 ngày 7-1-2002 để đảm bảo việc thi hành án đối với số nợ trên.

    Trường hợp giữa bà Nghĩa và bà Tình có hợp tác kinh doanh túi xách, nếu có xảy ra tranh chấp thì đây là mối quan hệ khác, sẽ được giải quyết ở vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

    Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

    Ông Nguyễn Hoàng Giang phải nộp 3.351.866 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 50.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí do ông Giang đã nộp là 3.242.000 đồng theo biên lai thu số 000518 
    ngày 19-9-2002 và 50.000 đồng tiền tạm ứng kháng cáo theo biên lai thu 
    số 004535 ngày 29-7-2004 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Bà Nghĩa phải nộp 50.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được khấu trừ 50.000 đồng tiền tạm ứng kháng cáo theo biên lai thu tiền số 004529 ngày 28-7-2004 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

    Ngày 22-4-2005, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh có công văn số444/BC-GĐT đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án đòi tiền mua túi xách giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Hoàng Giang và bị đơn là bà Nguyễn Thị Nghĩa.

    Ngày 30-4-2005, bà Nghĩa có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm.

    Tại Quyết định kháng nghị số 66/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 28-9-2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định: “Ngày 19-10-1995, bà Nguyễn Thị Nghĩa và bà Trần Thị Tình cùng đến cơ sở sản xuất của ông Nguyễn Hoàng Giang để đặt mua 13.800 túi sách, giá 10.500 đồng/1chiếc, thành tiền 144.900.000 đồng (việc mua bán giữa các bên chỉ thỏa thuận bằng miệng). Ngày 25-10-1995, ông Giang đã giao đủ hàng cho bà Tình (BL 33). Bà Nghĩa trả cho ông Giang tổng số tiền là: 80.000.000 đồng. Ngày 17-7-1996, bà Tình trả ông Giang 1.800USD tương đương số tiền là 19.800.000 đồng. Tổng cộng ông Giang đã nhận tiền hàng do cả hai người trả là 99.800.000 đồng còn thiếu 45.100.000 đồng. Ông Giang đã nhiều lần đi đòi tiền bà Tình nhưng bà Tình đã bỏ trốn nên ông Giang khởi kiện yêu cầu bà Nghĩa trả ông số tiền còn thiếu và tiền lãi do chậm trả theo mức lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định.

    Bà Nghĩa không thừa nhận nợ ông Giang 45.100.000 đồng mà cho rằng bà Tình là người trực tiếp đặt và mua hàng và thiếu tiền hàng của ông Giang. Còn bà không mua bán gì với ông Giang mà chỉ là người cho bà Tình mượn nhà để bà Tình làm văn phòng giao dịch, do đó bà không chịu trách nhiệm về số tiền còn thiếu của ông Giang, trách nhiệm này thuộc về bà Tình.

    Xét thấy: Việc mua bán túi sách giữa ông Giang với bà Nghĩa, bà Tình là có thật (hợp đồng miệng). Trong quá trình xác minh và xét xử tại Toà bà Nghĩa trước sau đều khai việc mua bán túi sách của ông Giang là do bà Tình thỏa thuận, bà chỉ là người cho bà Tình thuê nhà làm văn phòng giao dịch và giúp bà Tình thu tiền hàng cũng như việc thanh toán tiền khi bà Tình đi vắng. Bà Tình thừa nhận có đặt mua hàng của ông Giang, do hàng hóa bị mất nên chưa chi trả hết tiền hàng cho ông Giang. Việc này bà Tình đã báo với ông Giang. Bà Tình là người đặt cọc 10.000.000 đồng cho ông Giang. Toàn bộ việc mua và bán giữa bà với ông Giang không liên quan gì đến bà Nghĩa, bà Nghĩa chỉ là người chuyển giúp tiền khi bà đi xa (giấy xác nhận ngày 2-1-2002 của bà Tình gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao). Đến ngày 20-11-2003, bà Tình lại khai không buôn bán với ông Giang nhưng có lấy tiền lãi chênh lệch. Lời khai của bà Tình có nhiều mâu thuẫn. Trong khi đó ông Giang lại không đưa ra được một tài liệu pháp lý nào để chứng minh bà Nghĩa là người trực tiếp mua hàng và còn nợ tiền hàng của ông.

    Việc Toà án các cấp chỉ căn cứ vào việc bà Nghĩa có đi cùng với bà Tình đến cơ sở sản xuất của ông Giang và có việc bà Nghĩa trả tiền hàng cho ông Giang để buộc bà Nghĩa có trách nhiệm trả nợ hàng còn thiếu cho ông Giang là chưa có cơ sở vững chắc.

    Do đó, kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm 
    số 91/DSPT ngày 30-3-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đưa vụ án ra xét xử theo hướng huỷ bản án dân sự sơ thẩm só 1453/DSST ngày 14-7-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ sơ thẩm theo hướng phân tích trên”.

    Tại phiên Toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 1453/DSST ngày 14-7-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 30-3-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    xét thấy:

    Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì bà Nghĩa cùng đi với bà Tình đến cơ sở sản xuất của ông Giang. Khi thương lượng đặt mua túi xách, bà Nghĩa đứng ra trực tiếp thương lượng với ông Giang và có nói với ông Giang khi nào nhận được tiền thì gọi ông Giang đến nhà bà Nghĩa để nhận tiền (bà Nghĩa khai tại biên bản hòa giải không thành ngày 24-11-1999). Tại phiên Toà phúc thẩm lần 1 ngày 24-5-2000, bà Nghĩa thừa nhận có bảo lãnh cho bà Tình trong việc nhận hàng, thực hiện tế bà Nghĩa đã trả cho ông Giang được 80.000.000 đồng trong đó có cả 10.000.000 đồng tiền đặt cọc. Vì vậy, có căn cứ xác định bà Nghĩa là người thương lượng, đặt cọc, trả tiền trong quan hệ mua bán túi xách với ông Giang, cho nên bà Nghĩa phải có trách nhiệm đối với số tiền còn thiếu của ông Giang.

    Tuy nhiên, bà Tình có lời khai là bà có đi đặt hàng cùng bà Nghĩa, bà Tình là người nhận hàng ở chỗ ông Giang và theo lời khai của ông Giang thì bà Tình đã trả cho ông Giang 1.800USD. Đồng thời, bà Tình cũng thừa nhận có viết giấy xác nhận đề ngày 2-1-2002 với nội dung là bà Tình là người mua bán với ông Giang, bà Nghĩa chỉ là người chuyển tiền giúp bà Tình. Nhưng sau đó vào ngày 20-11-2003, bà Tình lại khai bà Tình viết giấy xác nhận đề ngày 2-1-2002 là để giữ uy tín cho bà Nghĩa. Bà Nghĩa đồng ý chi tiền cho bà Tình để trả cho ông Giang, trước tiên là đưa trước cho bà Tình 25.000.000 đồng để trả dần, nhưng sau đó không đem đến. Theo bà Tình biết thì bà Nga ở Hà Nội không thanh toán tiền cho bà Nghĩa, do vậy bà Nghĩa không thanh toán cho ông Giang. Lẽ ra, khi thấy lời khai của bà Tình mâu thuẫn với giấy xác nhận đề ngày 2-1-2002, thì Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm phải đặt các câu hỏi để làm rõ trách nhiệm của bà Tình khi viết giấy xác nhận. Đồng thời, Toà án các cấp phải xác minh làm rõ nguồn gốc khoản tiền 80.000.000 đồng do bà Nghĩa trả cho ông Giang là ở đâu, lý do vì sao bà Tình trả ông Giang 1.800USD và tiến hành đối chất giữa ông Giang với bà Tình, bà Nghĩa. Từ đó mới có cơ sở xác định bà Tình có trách nhiệm liên đới cùng bà Nghĩa trả số tiền còn thiếu cho ông Giang hay không. Mặt khác, bà Nga là người xác nhận chỉ làm ăn với bà Tình, chứ không liên quan gì đến bà Nghĩa, nhưng lời xác nhận của bà Nga về thời gian và mặt hàng làm ăn với bà Tình lại không thống nhất. Trong trường hợp này, Toà án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề trên mà đã xử buộc bà Nghĩa trả số tiền mua túi xách còn thiếu cho ông Giang và tách việc tranh chấp giữa bà Nghĩa với bà Tình về hợp tác kinh doanh túi xách (nếu có) thành quan hệ khác, sẽ được giải quyết ở vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu là không chính xác, chưa giải quyết triệt để vụ án.

    Ngoài ra, bản án phúc thẩm tuyên “Thời hạn thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật thi hành tại Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh”là không chính xác bởi vì pháp luật thi hành án không có quy định này.

    Đối với việc Đội thi hành án quận 6, thành phố Hồ Chí Minh kê biên căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành án thì đây là thuộc thẩm quyền của đội thi hành án. Lẽ ra, việc xem xét có huỷ bỏ việc kê biên hay không là thuộc thẩm quyền của Cơ quan thi hành án. Do đó, bản án phúc thẩm tuyên “Bác yêu cầu của bà Nghĩa và ông Đức xin huỷ bỏ việc kê biên của Đội thi hành án quận 6 đối với căn nhà135/15D-15G Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp tục duy trì việc kê biên căn nhà 135/15G Hùng Vương, phường 6, quận 6 của Đội thi hành án quận 6 ngày 7-1-2002 để đảm bảo việc thi hành án đối với số nợ trên”là không có căn cứ.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 30-3-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Hoàng Giang với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nghĩa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Tình, ông Trần Minh Đức.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét và giải quyết triệt để các quan hệ tranh chấp trong vụ án;

    2. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: “Thời hạn thanh toán một lần ngay sau khi có hiệu lực pháp luật thi hành tại phòng thi hành án...”là không đúng với quy định của pháp luật;

    3. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm duy trì việc kê biên tài sản là không đúng thẩm quyền.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ;

    2. áp dụng không đúng quy định của pháp luật về thời hạn thi hành án và thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 10:03:29 SA
     
    3521 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận