Quyết định giám đốc thẩm số 29/2005/ds-gđt ngày 01-11-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264971 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 29/2005/ds-gđt ngày 01-11-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Số hiệu

    29/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số29/2005/ds-gđt ngày 01-11-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Ngày ban hành

    01/11/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số29/2005/DS-GĐT

    NGÀY 01-11-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP 
    QUYềN Sử DụNG ĐấT”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 01 tháng 11 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên Toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Tuyết Hồng sinh năm 1944; trú tại nhà số 5A đường Trà Khúc, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bị đơn: Ông Nguyễn Nam Hải sinh năm 1961 và vợ là bà Đào Thị Hồng Vân sinh năm 1964; trú tại nhà số 5B đường Trà Khúc; phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

    - Ông Nguyễn Xuân Có sinh năm 1934 và vợ là bà Phạm Thị Tào sinh năm 1938 (cha mẹ đẻ của bị đơn Nguyễn Nam Hải); trú tại nhà số 6 đường Sông Đà, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    - Ông Nguyễn Xuân Hai (tức Nguyễn Hải) sinh năm 1954 và vợ là bà Vũ Thị Xuân Lan sinh năm 1959; định cư tại Mỹ (địa chỉ: số 4242 Larica Ave # B, Baldwin Park California 91706 USA).

    - Anh Nguyễn Xuân Hoàng; trú tại nhà số 5A đường Trà Khúc, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    - Chị Nguyễn Thị Tuyết Hạnh; trú tại lầu 2, nhà số 59B, An Dương Vương, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    - Anh Nguyễn Nam Hải sinh năm 1972; trú tại nhà số 5A đường Trà Khúc, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

    Nhận thấy:

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 09-7-2001, bà Hoàng Thị Tuyết Hồng yêu cầu Toà án buộc vợ chồng ông Nguyễn Nam Hải, bà Đào Thị Hồng Vân ở nhà số 5B đường Trà Khúc, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh phải trả cho bà phần đất có kích thước ngang 3,3m x dài 17m giáp đường Trà Khúc mà vợ chồng ông Hải, bà Vân đang sử dụng làm lối đi.

    Quá trình giải quyết vụ án, bà Hồng trình bày: Chồng bà là ông Nguyễn Xuân Điều có con trai riêng là ông Nguyễn Xuân Hai Trước năm 1994, ông Hai là công nhân quốc phòng công tác tại Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Tại Quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989, Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Hai và vợ là bà Vũ Thị Xuân Lan đã xây dựng căn nhà có tổng diện tích sử dụng 103,86m2 trên đất được cấp (nay là số nhà 5Ađường Trà Khúc). Khi xây nhà, vợ chồng ông Hai, bà Lan đã chừa ra một phần đất phía bên trái nhà, rộng khoảng trên 3m, dài khoảng 17m hết chiều dài đất được cấp cho nhà ông Nguyễn Nam Hải, bà Đào Thị Hồng Vân (nay là nhà số 5B đường Trà Khúc) mượn làm lối đi. Ngày 26-9-1994, vợ chồng ông Hai, bà Lan đã lập hợp đồng số3607/HĐ-CTN có nội dung cho đứt vợ chồng bà căn nhà và toàn bộ khuôn viên 204m2 đất nói trên; hợp đồng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng thực, đăng ký. Nay gia đình bà có nhu cầu sử dụng phần đất gia đình ông Hải, bà Vân đang mượn làm lối đi nên yêu cầu gia đình ông Hải, bà Vân trả lại. Nếu vợ chồng ông Hải, bà Vân trả lại đất thì bà sẽ thanh toán lại cho vợ chồng ông Hải bà Vân 50.000.000 đồng tiền xây dựng (vợ chồng ông Hải, bà Vân đã xây tường gạch, lợp mái tôn, lát nền, làm cửa và cổng sắt ra vào trên phần đất lối đi).

    Vợ chồng ông Nguyễn Nam Hải, bà Đào Thị Hồng Vân cho rằng: Diện tích đất trên có nhà số 5A và nhà số 5B và đường Trà Khúc là một phần đất của nhà số 6 đường Sông Đà có nguồn gốc là của ông Nguyễn Xuân Có (là cha ông Nguyễn Nam Hải và là chú ông Nguyễn Xuân Hai) được Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất cấp từ sau giải phóng Miền Nam. Ông Có đã cho ông Hai một phần đất phía sau nhà, giáp với đường Trà Khúc để làm nhà quay mặt ra đường Trà Khúc. Sau đó ông Có cũng cho ông Hải một phần đất giáp phía sau đất nhà ông Hai để làm nhà. Phần đất bà Hồng kiện đòi chính là lối đi duy nhất của nhà ông để đi ra đường Trà Khúc. Gia đình ông đã xây tường ngăn, lợp mái tôn, lát nền gạch, làm cổng và cửa sắt ra vào để sử dụng độc lập và riêng biệt. Mặt khác, trước khi ông Hai tặng nhà đất cho vợ chồng ông Điều, bà Hồng thì ông Hai cũng đã làm giấy cho vợ chồng ông phần đất đó để làm lối đi. Do đó, vợ chồng ông không chấp nhận yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của bà Hồng.

    Ông Nguyễn Xuân Có trình bày: Phần đất bà Hồng kiện đòi là một phần của thửa đất ông đã được Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất cấp theo Quyết định 37/CB ngày 26-3-1977. Ông nhất trí với những nội dung mà vợ chồng ông Hải, bà Vân đã trình bày và khẳng định việc bà Hồng kiện đòi vợ chồng ông Hải, bà Vân phải trả lại đất là không có căn cứ, đề nghị giữ nguyên hiện trạng.

    Tại Biên bản định giá ngày 11-3-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xác định phần đất hai bên tranh chấp có diện tích 60,45m2, kích thước dài 17,15m, nơi bề ngang rộng nhất là 3,85m, nơi bề ngang hẹp nhất là 3,2m; trị giá 181,35 lượng vàng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1411/DSST ngày 09-7-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ vào Điều 643 Bộ luật dân sự, quyết định:

    - Chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị Tuyết Hồng.

    - Buộc ông Nguyễn Nam Hải (SN 1961), bà Đào Thị Hồng Vân phải trả lại một phần diện tích 5B Trà Khúc, kế số 5A Trà Khúc, có diện tích ngang 3,85 m + 3,2m dài 17,15m cho bà Hoàng Thị Tuyết Hồng.

    - Ghi nhận sự tự nguyện của bà Hoàng Thị Tuyết Hồng hỗ trợ cho ông Hải (SN 1961) và bà Vân chi phí xây dựng trên phần đất này số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).

    Thời điểm giao tiền, giao đất ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    Ông Hải (SN 1961), bà Vân chịu án phí dân sự sơ thẩm 28.303.700đ (Hai mươi tám triệu ba trăm lẻ ba nghìn bảy trăm đồng). Bà Hồng chịu chi phí định giá 400.000 đồng (đã nộp ngày 01-3-2004).

    Hoàn cho bà Hồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 42360 ngày 01-10-2001 của Đội thi hành án quận Tân Bình và số tiền 2.112.000 đồng theo biên lai thu số 3534 
    ngày 25-02-2004 của Phòng thi hành án TP. Hồ Chí Minh.

    Ngày 12-7-2004, ông Nguyễn Xuân Có, đại diện theo uỷ quyền của vợ chồng ông Hải, bà Vân có đơn kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 329/DSPT ngày 08-11-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

    1/ Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 1411/DSST ngày 09-7-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, xử:

    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Tuyết Hồng.

    Buộc ông Nguyễn Nam Hải (SN 1961) và bà Đào Thị Hồng Vân phải trả lại một phần diện tích đất của nhà số 5B Trà Khúc kế nhà số 5A Trà Khúc, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh có chiều ngang lớn nhất 3,85m, nhỏ nhất 3,2m và chiều dài 17,15m cho bà Hoàng Thị Tuyết Hồng.

    2/ Phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

    3/ Ông Nguyễn Nam Hải (SN 1961) phải nộp 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ 50.000đ tạm ứng án phí kháng cáo, ông Hải (SN 1961) đã nộp tại Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh theo biên lai thu số 04467 
    ngày 15-7-2004.

    Ngày 18-4-2005, vợ chồng ông Nguyễn Nam Hải, bà Đào Thị Hồng Vân có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm cho rằng Cụm cảng hàng không miền Nam đã có nhiều văn bản khẳng định Quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989 của Sân bay Tân Sơn Nhất cấp đất cho ông Nguyễn Xuân Hai là sai nguyên tắc; các cấp Toà án vẫn căn cứ vào nội dung quyết định này để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồng là trái pháp luật, gây thiệt hại cho gia đình ông bà.

    Tại Quyết định kháng nghị số54/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 08-9-2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhận định: Cụm cảng hàng không Miền Nam thuộc Cục hàng không dân dụng Việt Nam (tiền thân là Sân bay Tân Sơn Nhất thuộc Bộ Quốc phòng) đã có nhiều văn bản khẳng định diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc là Sân bay Tân Sơn Nhất cấp cho ông Nguyễn Xuân Có; ông Nguyễn Xuân Hai khi đó không đủ tiêu chuẩn được cấp đất; việc Phó giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất ký Quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989 cấp đất cho ông Hai là không đúng và không đủ thẩm quyền. Vì vậy, Tổng Giám đốc cụm cảng hàng không miền Nam đã ban hành Quyết định số1483/QĐ-CCMN ngày 29-8-2005 về việc thu hồi và huỷ bỏ quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989 nêu trên. Mặt khác, theo Điều 3 Hợp đồng tặng cho nhà ngày 26-9-1994 có chữ ký của cả bên cho và bên nhận thì vợ chồng ông Điều đồng ý nhận nhà trong tình trạng hiện hữu. Theo Bản vẽ hiện trạng nhà ngày 09-9-1994 do Phòng quản lý đô thị thuộc Uỷ ban nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh lập thì nhà số 5 (nay thuộc 5A đường Trà Khúc) đất chiều ngang mặt đường chỉ có 9,3m tính từ giáp ranh nhà số 3 sang phía nhà số 5 và chiều dài từ đường vào hết đất là 16,6m; như vậy nhà số 5A đường Trà Khúc không bao gồm diện tích đất có tranh chấp, phù hợp với giấy cho đất mà ông Hai lập ngày 17-8-1994 có nội dung ông Hai cho ông Hải phần đất nay bà Hồng kiện đòi vợ chồng ông Hải, bà Vân để gia đình ông Hải làm lối đi. Thực tế, vợ chồng ông Hải, bà Vân đã sử dụng phần đất này làm lối đi từ năm 1991.

    Viện trưởng Viện kiểm nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 329/DSPT ngày 08-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 1411/DSST ngày 09-7-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ về cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm theo hướng phân tích trên. Tại phiên Toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu giữ nguyên quan điểm đã được nêu trong kháng nghị.

    xét thấy:

    Bà Hồng căn cứ vào Quyết định số 240/QĐ ngày 30-8-1989 của Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất về việc cấp cho ông Nguyễn Xuân Hai quyền sử dụng 204m2 đất tại số 5 (nay là số nhà 5A) đường Trà Khúc và Hợp đồng cho nhà lập ngày 26-9-1994, có nội dung vợ chồng ông Hai cho đứt vợ chồng bà căn nhà và khuôn viên đất tọa lạc tại địa chỉ trên để khẳng định phần đất hiện gia đình ông Hải, bà Vân đang sử dụng làm lối đi thuộc quyền sử dụng của bà. Tuy nhiên, diện tích đất khuôn viên ghi trong hợp đồng cho nhà là diện tích theo Quyết định số 240/QĐ ngày 30-8-1989 nhưng quyết định này là không hợp pháp. Cụm cảng hàng không Miền Nam thuộc Cục hàng không dân dụng Việt Nam đã có nhiều văn bản khẳng định: Nguồn gốc của thửa đất trên có nhà số 5A đường Trà Khúc (của bà Hồng), nhà số 5B đường Trà Khúc (của vợ chồng ông Hải, bà Vân - có phần đất tranh chấp) và nhà số 6 đường Sông Đà là do Sân bay Tân Sơn Nhất tạm cấp cho ông Nguyễn Xuân Có theo quyết định số 37/CB ngày 26-3-1977; ông Hai không đủ tiêu chuẩn nên Sân bay Tân Sơn Nhất khi đó không xét cấp đất cho ông. Quyết định số 240/QĐ ngày 30-8-1989 do ông Trương Hồng Sơn - Phó Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất ký cấp đất cho ông Hai là theo yêu cầu của ông Có và ông Hai nhằm hợp thức việc cho đất. Khẳng định này của Cụm cảng hàng không Miền Nam phù hợp thực tế là Quyết định số 37/CB ngày 26-3-1977 của Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất có nội dung cấp cho ông Nguyễn Xuân Có lô đất số 6 đường Sông Đà (bao gồm cả diện tích đất ông Hai và ông Hải sử dụng) không bị thu hồi khi ban hành Quyết định số 240/QĐ. Ngày 29-8-2005, Tổng Giám đốc Cụm cảng hàng không Miền Nam đã ban hành Quyết định số1483/QĐ-CCMN có nội dung thu hồi và huỷ bỏ Quyết định số 240/QĐ nói trên. Ông Có xác nhận thực tế ông Hải là người sử dụng, còn ông Hai không sử dụng phần đất tranh chấp hiện nay. Cũng chính vì vậy trước khi làm hợp đồng cho nhà đối với bà Hồng, ông Hai đã có giấy đề ngày 15-8-1994 khẳng định đã cho ông Hải diện tích đất ông Hải sử dụng làm lối đi. Tại giấy đề ngày 15-4-2003, có xác nhận của Lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ, ông Hai tiếp tục khẳng định việc cho ông Hải sử dụng đất trên.

    Theo hợp đồng ngày 26-9-1994 thì vợ chồng ông Điều, bà Hồng đồng ý “nhận nhà trong tình trạng hiện hữu”. Đối chiếu với Biên bản vẽ hiện trạng nhà do Phòng quản lý đô thị thuộc Uỷ ban nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 09-9-1994, có chữ ký của ông Hai (bên cho) và chữ ký của ông Điều (bên nhận) thì chiều ngang nhà giáp mặt đường Trà Khúc là 9,3m, không phải là 12m như trong Quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989 đã nêu. Mặt khác, tại Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ ngày 20-10-1994, Phòng thuế trước bạ và thu khác thuộc Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh đã xác định phần khuôn viên đất đã trừ lộ giới của nhà số 5 (nay là 5A) đường Trà Khúc có kích thước 9,3m x 13,5m; đồng thời tại công văn số 2343/Trbạ ngày 14-8-2002, Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh cũng đã xác nhận phần đất nhà số 5 (nay là 5A) Trà Khúc chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất và phí trước bạ là 125,55m2, không phải là 204m2 như Quyết định số 240/QĐ ngày 30-6-1989 đã nêu; đồng thời, diện tích đất đang tranh chấp là lối đi ra đường Trà Khúc mà gia đình ông Hải đã sử dụng ổn định từ trước đến nay. Vì vậy có đủ cơ sở xác định ý chí chủ quan của bên cho và bên nhận đều thống nhất nhà và khuôn viên đất theo tình trạng thực tế không bao gồm phần đất mà bà Hồng kiện đòi.

    Với các chứng cứ như trên, lẽ ra phải bác yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của bà Hồng, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Hồng, buộc vợ chồng ông Hải, bà Vân phải trả lại cho bà Hồng phần đất đang sử dụng làm lối đi là không có căn cứ.

    Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 329/DSPT ngày 08-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Hoàng Thị Tuyết Hồng với bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Nam Hải, bà Đào Thị Hồng Vân.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 10:01:53 SA
     
    3072 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận