Quyết định giám đốc thẩm số 27/2005/ds-gđt ngày 31-10-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264969 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 27/2005/ds-gđt ngày 31-10-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

    Số hiệu

    27/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số27/2005/ds-gđt ngày 31-10-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

    Ngày ban hành

    31/10/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số27/2005/DS-GĐT

    NGÀY 31-10-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP HợP ĐồNG CHUYểN NHƯợNG QUYềN Sử DụNG ĐấT”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 31 tháng 10 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:

    - Bà Bùi Thị Em Xinh, sinh năm 1963;

    - Ông Nguyễn Văn Lơ, sinh năm 1964;

    Cả hai đều trú tại 567 ấp Thạnh Thuận, xã Phú An, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay là 567 khu vực Thạnh Thuận, phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ).

    Bị đơn:

    Bà Lâm Tú Dung, trú tại 41A Lý Tự Trọng, phường An Phú, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của nguyên đơn (văn bản uỷ quyền ngày 29-4-2002): ông Sầm Kim Thông, sinh năm 1957; trú tại nhà số 20/11 đường Lê Thánh Tông, phường Tân An, thành phố Cần Thơ.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Bà Lâm Ngọc Chi, hiện định cư tại 3455 Havenwood, Dr Unit # 46 Mississauga, Ontario, L4X - 2M7, Canada.

    Nhận thấy:

    Tại đơn khởi kiện ngày 05-4-2002, đơn khởi kiện bổ sung và các lời khai tại Toà án, bà Bùi Thị Em Xinh và ông Nguyễn Văn Lơ trình bày có nội dung: tháng giêng năm 2002 vợ chồng bà có bán cho bà Lâm Tú Dung 7.552m2đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng dất số 000781 QSDĐ ngày 18-5-2001 với giá 90 lượng 6 chỉ vàng 24K (12 lượng vàng 24K/1000m2). Bà Lâm Tú Dung đã giao trước cho ông bà 50.000.000 đồng, số vàng còn lại đến nay chưa trả. Vì vậy, ông bà yêu cầu Toà án buộc Lâm Tú Dung phải trả nốt số vàng còn lại hoặc trả lại đất.

    Bà Lâm Tú Dung (uỷ quyền cho ôg Sầm Kim Thông đại diện) có các lời khai với nội dung: diện tích 7.552m2đất là của ông Nguyễn Văn Phúc chuyển nhượng cho bà Lâm Ngọc Chi (chị gái bà Dung). Do bà Chi chuẩn bị điCanada nên đã nhờ bà Xinh đứng tên trong hợp đồng chuyền nhượng. Giá cả thoả thuận trong hợp đồng là 49,088 lượng vàng 24K do bà Chi thanh toán bằng tiền mặt của mình. Bà Chi đã trả tiền đợt 1 là 10 lượng vàng, tương đương với 50.000.000 đồng; bà Chi đưa số vàng này cho ông Lơ (có ông Được cán bộ Địa chính xã chứng kiến), để ông Lơ giao cho ông Phúc. Ngày 22-5-2001 ông Lâm Văn Mỹ (anh trai của bà Chi và bà Dung) đã thay mặt bà Chi trực tiếp giao nốt số vàng còn lại là 39,088 lượng cho ông Phúc có mặt ông Được, ông Lơ.

    Trước khi đi Canada, bà Chi nợ bà Dung một số tiền (đương sự không nói rõ số tiền nợ) nên sau khi ở Canada về thăm gia đình tại Việt Nam (năm 2002) bà Chi đã yêu cầu vợ chồng bà Xinh chuyển tên quyền sử dụng đất từ tên bà Xinh sang tên bà Dung và vợ chồng bà Xinh đã làm thủ tục chuyển tên từ bà Xinh sang tên bà Dung. Ngày 20-3-2002, Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000781 QSDĐ cho bà Dung. Theo đó bà Dung được quyền sử dụng 7.552m2 đất, gồm ba thửa là: thửa 891 có diện tích 2.842m2 đất 2 lúa; thửa 894 có diện tích 3.150m2 đất 2 lúa; thửa 895 có diện tích 1.560m2 đất 2 lúa tại tờ bản đồ số 1 xã Phú An, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay là phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ). Vì diện tích đất này không phải của vợ chồng bà Xinh, nên bà Dung không nhất trí thanh toán số vàng cũng như trả đất cho vợ chồng bà Xinh.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 34/DSST ngày 12-11-2003, Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ căn cứ Điều 3, Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quyết định:

    Bác yêu cầu của bà Bùi Thị Em Xinh, ông Nguyễn Văn Lơ đòi bà Lâm Tú Dung trả 80 (tám mươi) lượng 06 (sáu) chỉ vàng 24K vàng 10.

    án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch ông Lơ, bà Xinh phải nộp 19.509.680 đồng.

    Các đương sự ông Lơ, bà Xinh, bà Dung có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà Chi có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được trích lục bản án sơ thẩm.

    Ngày 14-11-2003, bà Bùi Thị Em Xinh và ông Nguyễn Văn Lơ có đơn kháng cáo đề nghị Toà án phúc thẩm giải quyết buộc bà Dung phải trả tiền (vàng) cho vợ chồng bà.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 08-4-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh căn cứ khoản 2 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quyết định:

    Sửa án sơ thẩm;

    Bác yêu cầu của bà Bùi Thị Em Xinh, ông Nguyễn Văn Lơ đòi bà Lâm Tú Dung trả 80 (tám mươi) lượng 06 (sáu) chỉ vàng 24K vàng 10.

    Huỷ hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Phúc với bà Bùi Thị Em Xinh, ông Nguyễn Văn Lơ.

    Huỷ hợp đồng chuyển nhượng bán kết quả lao động và đầu tư giữa bà Bùi Thị Em Xinh, ông Nguyễn Văn Lơ với bà Lâm Tú Dung.

    Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000781 ngày 18-5-2001 của UBND huyện Châu Thành cấp cho bà Bùi Thị Em Xinh và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000781 ngày 20-3-2002 do UBND huyện Châu Thành cấp cho bà Lâm Tú Dung.

    Giao cho Phòng thi hành án thành phố Cần Thơ đấu giá phát mãi diện tích 7.552m2 đất toạ lạc tại ấp Thạnh Thuận, xã Phú An, huyện Châu Thành, thành phố Cần Thơ. Khi phát mãi ông Nguyễn Văn Lơ, bà Bùi Thị Em Xinh được quyền ưu tiên mua trước.

    Bà Lâm Ngọc Chi được nhận lại 49 lượng 08 phân 08 ly (bốn mươi chín lượng, tám phân tám ly) vàng 24K. Số còn lại sau khi trừ chi phí phát mãi còn lại tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

    Bà Xinh, ông Lơ không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lâm Tú Dung có đơn khiếu nại đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và cho rằng khi chuyển nhượng đất với ông Phúc thì bà Chi vẫn là người Việt Nam, nên nhờ người khác đứng tên không trái pháp luật. Toà phúc thẩm huỷ cả hai hợp đồng là làm thiệt hại đến quyền lợi của bà. Nhà nước đã thu hồi một phần đất (3.819m2) nằm trong tổng diệnt ích 7.552m2 đất nên không thể thi hành theo bản án được.

    Ngày 23-9-2004 Phòng thi hành án thành phố Cần Thơ có Công văn số 165/KN đề nghị Toà án nhân dân tối cao xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm 
    số 103/DSPT ngày 08-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với lý do trước khi xét xử phúc thẩm, thì UBND huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ đã có quyết định thu hồi 3.819m2 trong tổng số 7.552m2 đất mà bản án phúc thẩm đã tuyên, để thực hiện quy hoạch xây dựng khu đô thị mới Nam sông Cần Thơ.

    Vì vậy, Phòng thi hành án thành phố Cần thơ (nay là Thi hành án thành phố Cần Thơ) đề nghị Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm trên, tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án thi hành xong bản án.

    Tại Quyết định số71/2005/DS-KN ngày 11-7-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 08-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh với nhận định có nội dung: 7.552m2 đất đang tranh chấp quyền sử dụng đất là của bà Lâm Ngọc Chi, chứ không phải của vợ chồng bà Xinh, ông Lơ. Việc bà Xinh đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng với ông Phúc là đứng tên giúp bà Chi. Mặt khác diện tích đất trên đã bị Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ ban hành Quyết định số 1549 ngày 19-12-2003 thu hồi 3.819m2 để giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Thịnh xây dựng khu đô thị mới Nam sông Cần Thơ và đền bù cho bà Lâm Tú Dung 66.336.030 đồng; nhưng Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét để quyết định cho đúng pháp luật.

    Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 08-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị số71/2005/DS-KN ngày 11-7-2005 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị nêu trên.

    xét thấy:

    Diện tích 7.552m2 đất nguyên là của ông Nguyễn Văn Phúc. Khi biết ông Phúc có ý định bán, bà Lâm Ngọc Chi đã nhờ ông Nguyễn Thành Được (cán bộ địa chính xã Phú An) đứng ra giao dịch với ông Nguyễn Văn Phúc. Hai bên đã thoả thuận giá 6,5 cây vàng 24K/1000m2, tổng cộng là 49,088 lượng vàng 24K và hẹn ngày để làm hợp đồng. Do bà Chi chuẩn bị đi nước ngoài, nên bà Chi có nhờ bà Bùi Thị Em Xinh đứng tên giùm trong hợp đồng.

    Ngày 15-4-2001, ông Nguyễn Văn Lơ (chồng bà Xinh) cùng Nguyễn Thành Được đến nhà bà Chi nhận 10 lượng vàng 24K, sau đó ông Lơ và ông Được đến gặp ông Nguyễn Văn Phúc, Ông Nguyễn Thành Được đã soạn thảo hợp đồng để hai bên ký kết và ông Nguyễn Văn Lơ đã giao cho ông Phúc 10 lượng vàng 24K, tương đương 50.000.000 đồng.

    Ngày 22-5-2001, ông Lâm Văn Mỹ (anh trai bà Chi) đã trực tiếp thanh toán nốt số vàng còn thiếu là 39,088 lượng vàng 24K cho ông Phúc.

    Năm 2002, bà Lâm Ngọc Chi về nước thăm gia đình yêu cầu bà Xinh chuyển tên quyền sử dụng diện tích đất trên cho bà Lâm Tú Dung (em gái bà Chi) nên bà Xinh đã làm thủ tục chuyển tên trong giấy chứng quyền sử dụng đất từ tên bà sang tên bà Dung bằng “hợp đồng chuyển nhượng bán kết quả lao động và đầu tư (chuyển quyền sử dụng đất)”giữa bà Bùi Thị Em Xinh và ông Nguyễn Văn Lơ cho bà Lâm Tú Dung. Trong hợp đồng không ghi số tiền chuyển nhượng. Ngày 20-3-2003, Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Cần thơ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Lâm Tú Dung và số giấy chứng nhận trùng số cấp cho bà Bùi Thị Em Xinh.

    Do đó, có đầy đủ căn cứ kết luận diện tích trên không phải của vợ chồng bà Bùi Thị Em Xinh. Việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xử bác yêu cầu của bà Bùi Thị Em Xinh và ông Nguyễn Văn Lơ đòi bà Lâm Tú Dung trả 80,06 lượng vàng 24K là đúng. Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm lại xét xử cả những quan hệ ngoài yêu cầu của đương sự là không đúng thẩm quyền, trong đó có quyết định huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000781 QSDĐ ngày 20-3-2002 c?a Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành cấp cho bà Lâm Tú Dung. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19-12-2003 Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành đã ban hành Quyết định số1549/QĐ-UB thu hồi 3.819m2 đất để giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Thịnh xây dựng khu đô thị mới Nam sông Cần Thơ và đền bù cho bà Lâm Tú Dung 66.336.030 đồng, nhưng Toà án cấp phúc thẩm vẫn xử huỷ tất cả các hợp đồng và giao cho phòng thi hành án thành phố Cần Thơ đấu giá, phát mãi diện tích 7.552m2 đất nói trên là không đúng.

    Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 08-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Bùi Thị Em Xinh và ông Nguyễn Văn Lơ với bị đơn là bà Lâm Tú Dung.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    Toà án cấp phúc thẩm xem xét và quyết định cả những quan hệ nằm ngoài yêu cầu của các đương sự là không đúng thẩm quyền.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc vận dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 09:58:02 SA
     
    2786 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận