Quyết định giám đốc thẩm số 25/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “đòi tài sản”

Chủ đề   RSS   
  • #264965 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 25/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “đòi tài sản”

    Số hiệu

    25/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số25/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “đòi tài sản”

    Ngày ban hành

    16/09/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số25/2005/DS-GĐT

    NGÀY 16-9-2005 Về Vụ ÁN “ĐÒI TÀI SảN”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 16 tháng 9 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp đòi tài sản (nhà ở) giữa các đương sự:

     Nguyên đơn: Bà Ngô Xuân Tú, sinh năm 1955; Trú tại: Trường tiểu học Ngô Quyền, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc và chồng là ông Nguyễn Nhân 
    trú tại phường Liên Bảo, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (Giấy uỷ quyền 
    ngày 07-01-2001, có chứng thực của Uỷ ban nhân dân phường Liên Bảo, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 07-01-2002).

     Bị đơn: Ông Nguyễn Minh Tuấn, sinh năm 1954 và vợ là bà Đỗ Thị Mến, sinh năm 1955; cả hai đều trú tại Tổ 26, phố Tân An, phường Tân Dân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

    Nhận thấy:

    Tại đơn khởi kiện ngày 08-10-2001 và đơn đề nghị ngày 26-11-2001 nguyên đơn là bà Ngô Xuân Tú và ông Nguyễn Nhân yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn là ông Nguyễn Minh Tuấn và vợ là bà Đỗ Thị Mến trả lại căn nhà số 26 phố Tân An, phường Tân Dân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và không đồng ý thanh toán cho vợ chồng bị đơn khoản tiền mà họ đã chi để sửa chữa nhà như đã hứa (20 triệu đồng).

    Căn nhà số 26 phố Tân An, phường Tân Dân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Ngô Xuân Tú và ông Nguyễn Nhân. Năm 1997 vợ chồng bà Tú và ông Nhân thoả thuận bán căn nhà đó cho vợ chồng ông Nguyễn Minh Tuấn và bà Đỗ Thị Mến với giá 130 triệu đồng. Hai bên thống nhất khi vợ chồng bà Mến bán được căn nhà của họ thì sẽ trả cho vợ chồng bà Tú 70 triệu đồng và chỉ mới thoả thuận miệng, chưa giao kết hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên vợ chồng bà Tú đã giao nhà cho vợ chồng bà Mến vào ở. Đầu năm 1998 vợ chồng bà Mến đã bán được căn nhà của mình với giá 145 triệu đồng, nhưng không trả tiền mua nhà cho vợ chồng bà Tú như đã thoả thuận mà dùng tiền đó để sửa chữa căn nhà của vợ chồng bà Tú để sử dụng. Vợ chồng bà Tú đã đòi tiền nhiều lần. Ngày 31-5-1998 ông Tuấn chồng bà Mến mới làm giấy hẹn đến ngày 22-6-1998 sẽ trả 1/2 tiền mua nhà. Tuy nhiên đến tháng 10 năm 1998 vợ chồng bà Mến chỉ mới trả cho vợ chồng bà Tú được 50 triệu đồng. Đến thời điểm này hai bên vẫn chưa giao kết hợp đồng mua bán nhà và vợ chồng bà Mến cũng không trả nốt số tiền còn lại, nên bà Tú và ông Nhân đã đề nghị không tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà và trả lại 50 triệu đồng. Vợ chồng bà Mến đồng ý và đã nhận lại 50 triệu đồng vào ngày 19-9-2001 (có giấy biên nhận). Tại giấy biên nhận này ông Nhân (là chồng bà Tú) nhất trí thanh toán cho vợ chồng bà Mến toàn bộ số tiền do vợ chồng bà Mến đã đầu tư vào sửa chữa căn nhà. Do vợ chồng bà Mến không giao trả nhà nên bà Tú, ông Nhân khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Mến trả nhà và không đồng ý trả cho vợ chồng bà Mến khoản tiền sửa nhà như đã hứa là 20 triệu đồng.

    Về phía bị đơn vợ chồng bà Mến có lời khai về việc đồng ý không tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà như đề nghị của vợ chồng bà Tú và đã nhận lại 50 triệu đồng. Đồng thời yêu cầu đư���c thanh toán tiền sửa nhà theo vợ chồng bà tính toán là 52.720.000 đồng thì vợ chồng bà sẽ giao căn trả căn nhà cho vợ chồng bà Tú.

    Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành định giá phần sửa chữa nhà do vợ chồng bà Mến chi phí là 21.783.648 đồng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 09/DSST ngày 05-02-2002, Toà án nhân dân thành phố Việt Trì quyết định:

    - Huỷ hợp đồng mua bán nhà ở (bằng miệng) giữa gia đình ông Nguyễn Nhân, bà Ngô Xuân Tú với anh Nguyễn Minh Tuấn, chị Đỗ Thị Mến.

    - Buộc anh Nguyễn Minh Tuấn và chị Đỗ Thị Mến trả lại căn nhà trên diện tích đất ở 165,4m2 cho chủ sở hữu là bà Ngô Thị Tú và ông Nguyễn Nhân ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    - Xác nhận bà Ngô Thị Tú và ông Nguyễn Nhân đã hoàn trả cho gia đình anh Nguyễn Minh Tuấn chị Đỗ Thị Mến 50 triệu đồng (Năm mươi triệu đồng).

    - Bác yêu cầu của anh Nguyễn Minh Tuấn và chị Đỗ Thị Mến đòi bà Ngô Xuân Tú và ông Nguyễn Nhân khoản tiền sửa chữa nhà là 52.720.000 đồng.

    - án phí anh Nguyễn Minh Tuấn và gia đình phải nộp 2.600.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch.

    - Hoàn lại cho bà Ngô Thị Tú 100.000 đồng dự phí án phí.

    Ngày 08-02-2002 ông Tuấn kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 31-7-2002, Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ quyết định:

    - Sửa bản án số 09 ngày 5-2-2002 của Toà án nhân dân thành phố 
    Việt Trì.

    1. Buộc ông Nguyễn Minh Tuấn và bà Đỗ Thị Mến phải trả lại căn nhà trên diện tích đất 165, 4m2 ở phố Tân An, phường Tân Dân, thành phố Việt Trì cho bà Ngô Xuân Tú và ông Nguyễn Nhân.

    Bà Tú, ông Nhân phải thanh toán tiền sửa chữa nhà cho ông Tuấn, bà Mến 10.500.000 đồng (mười triệu năm trăm ngàn đồng)

    Ông Tuấn, bà Mến được lưu cư trong hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

    Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Mến, ông Tuấn có đơn yêu cầu bà Tú, ông Nhân không thi hành án thì phải chịu lãi xuất đối với số tiền chậm trả lãi xuất nợ quá hạn do ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

    2. Bà Ngô Xuân Tú, ông Nguyễn Nhân phải chịu 500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận đã nộp 100.000 đồng dự phí án phí sơ thẩm.

    Ông Nguyễn Minh Tuấn, bà Đỗ Thị Mến phải chịu 2.000.000 đồng án phí sơ thẩm, nhưng không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận ông Tuấn, bà Mến đã nộp 50.000 đồng dự phí kháng cáo.

    3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

    Tại Quyết định số90/KN-VKSTC-V5 ngày 12-8-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT 
    ngày 31-7-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ, đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ án phúc thẩm, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm lại theo hướng buộc ông Nhân, bà Tú phải thanh toán cho ông Tuấn, bà Mến toàn bộ tiền sửa chữa, nâng cấp nhà.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số174/GĐT-DS ngày 20-10-2003, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị và quyết định giữ nguyên các quyết định của bản án dân sự phúc thẩm.

    Vợ chồng bà Mến tiếp tục khiếu nại yêu cầu được thanh toán toàn bộ tiền sửa chữa nhà là 52 triệu đồng và việc bản án phúc thẩm nhận định vợ chồng bà chỉ có 1/2 lỗi, nhưng lại buộc chịu toàn bộ án phí là không đúng. Đề nghị Toà án buộc ông Nhân (chồng bà Tú) chịu toàn bộ tiền án phí và phải đền bù cho vợ chồng bà giá trị 50 triệu đồng từ năm 1997 đến nay theo giá vàng hoặc đôla Mỹ.

    Tại Quyết định số58/2005/KN-DS ngày 08-6-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số174/GĐT-DS /> ngày 20-10-2003 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Quyết định giám đốc thẩm số174/GĐT-DS ngày 20-10-2003 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 31-7-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    xét thấy:

    Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì quan hệ hợp đồng mua bán nhà giữa vợ chồng bà Mến với vợ chồng bà Tú đã được các bên thoả thuận chấm dứt. Trong đơn khởi kiện của mình bà Tú và ông Nhân chỉ khởi kiện để đòi lại nhà do vợ chồng bà Mến đang sử dụng; Còn vợ chồng bà Mến phản tố yêu cầu bà Tú và ông Nhân phải thanh toán khoản tiền mà vợ chồng bà đã bỏ ra để sửa nhà. Như vậy, tranh chấp vụ án cụ thể này phải xác định đây là tranh chấp về đòi tài sản (nhà ở). Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp giám đốc thẩm đều xác định căn nhà số 26 phố Tân An, phường Tân Dân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Nhân và bà Ngô Xuân Tú, buộc bị đơn phải trả nhà cho nguyên đơn là đúng.

    Về khoản tiền sửa chữa nhà, khi vợ chồng bà Mến sửa nhà có được sự đồng ý của vợ chồng bà Tú, hơn nữa khi trả lại 50 triệu đồng tiền mua nhà cho vợ chồng bà Mến, thì vợ chồng bà Tú cũng đã nhất trí thanh toán cho vợ chồng bà Mến khoản tiền này sau khi có tính toán cụ thể. Tuy vợ chồng bà Mến khai số tiền sửa chữa nhà hết 52 triệu đồng, nhưng theo giá của Hội đồng định giá đã xác định số tiền mà vợ chồng bà Mến đã bỏ ra sửa chữa là 21.783.648 đồng. Do vậy, cần buộc vợ chồng bà Tú thanh toán cho vợ chồng bà Mến và phải chịu án phí đối với khoản tiền này, đồng thời buộc vợ chồng bà Mến phải chịu án phí đối với khoản tiền yêu cầu nhưng không được chấp nhận (33 triệu đồng) mới đúng. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 31-7-2002, Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ chỉ buộc vợ chồng bà Tú thanh toán cho vợ chồng bà Mến 10.500.000 đồng và chịu 500.000 đồng (năm trăm nghìn) tiền án phí dân sự sơ thẩm; ông Nguyễn Minh Tuấn, bà Đỗ Thị Mến phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu) án phí dân sự sơ thẩm tại và tại Quyết định Giám đốc thẩm số174/GĐT-DS ngày 20-10-2003, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã giữ nguyên hiệu lực của bản án dân sự phúc thẩm nói trên đều là không đúng.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297; khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    1. Huỷ Quyết định giám đốc thẩm số174/GĐT-DS ngày 20-10-2003 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 31-7-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã xét xử tranh chấp về đòi tài sản (nhà ở) giữa nguyên đơn là bà Ngô Xuân Tú và ông Nguyễn Nhân với bị đơn là ông Nguyễn Minh Tuấn và bà Đỗ Thị Mến.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ quyết định giám đốc thẩm và bản án phúc thẩm:

    Toà án cấp phúc thẩm xác định không chính xác về số tiền sửa chữa nhà mà nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn và quyết định sai về án phí dân sự.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ quyết định giám đốc thẩm và bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 09:51:55 SA
     
    2914 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận